Kinh Vu Lan Bồn

  1. 1. Kinh Vu Lan Bon

Sử Dụng Phím Tắt Cho Máy Nghe Nhạc :

Nghe Bài Tiếp Theo Nghe Bài Phía Sau Space Mở/Dừng Lại

KINH VU LAN BÁO HIẾU

HT Thích Trí Thoát tụng


TÁN HƯƠNG

Kim lư vừa bén chiên đàn
Cắm xong pháp giới đạo tràng mười phương
Hiện thành mây báu kiết tường
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thành
Pháp thân toàn thể hiện tiền
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho
Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-tát (3 lần)
Nam-mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (3 lần)

KỆ KHAI KINH

Pháp Phật cao siêu lý ẩn sâu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe được Kinh trì tụng
Nguyện đức Như-Lai giải nghĩa mầu
Nam-mô Đại-hiếu Mục-Kiền-Liên Bồ-tát (3 lần)

PHẬT NÓI KINH VU LAN BỒN

Con từng nghe lời tán như vầy:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung
Mục Liên mới đặng lục thông
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên
Bèn dùng huệ nhãn, dưới trên kiếm tầm.
Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỉ
Không uống ăn tiều tụy hình hài
Mục Liên thấy vậy bi ai
Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm.
Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu
Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu
Thấy cơm, mẹ rất lo âu
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
Lòng bỏn xẻn tiền căn chưa dứt
Sợ chúng ma cướp giựt của bà
Cơm đưa chưa tới miệng đà
Hóa thành than lửa, nuốt mà đặng đâu.
Thấy như vậy âu sầu thê thảm
Mục-Kiền-Liên bi cảm xót thương
Mau mau về đến giảng đường
Bạch cùng Sư Phụ tìm phương giải nàn.
Phật mới bảo rõ ràng căn cội
Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu
Dầu ông thần lực nhiệm mầu
Một mình không thể ai cầu được đâu.
Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn
Tiếng vang đồn thấu đến Cửu Thiên
Cùng là các bậc Thần kỳ
Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương
Cộng ba cõi sáu phương tu tập
Cũng không phương cứu cấp mẹ ngươi.
Muốn cho cứu đặng mạng người,
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng.
Pháp cứu tế ta toan giải nói
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn.

Bèn kêu Mục thị đến gần
Truyền cho diệu pháp ân cần thiết thi:
Rằm tháng Bảy là ngày Tự Tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu.
Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu
Món ăn tinh sạch báu mầu
Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng.
Chư Ðại đức mười phương thụ thực
Trong bảy đời sẽ được siêu thăng
Lại thêm cha mẹ hiện tiền
Ðặng nhờ phước lực tiêu khiên ách nàn.
Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng tụ hội về
Như người thiền định sơn khê
Tránh điều phiền não, chăm về thiền na.
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh
Hoặc người thọ hạ kinh hành
Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng.
Hoặc người đặng lục thông tấn phát
Và những hàng Duyên Giác, Thanh Văn
Hoặc chư Bồ-tát mười phương
Hiện hình làm sãi ở gần chúng-sanh.
Ðều trì giới rất thanh, rất tịnh
Ðạo đức dày chánh định chân tâm
Tất cả các bậc Thánh, Phàm
Ðồng lòng thụ lãnh bát cơm lục hòa.
Người nào có sắm ra vật thực
Đặng cúng dường Tự Tứ Tăng thời
Hiện tiền phụ mẫu của người
Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn.
Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh nhàn hưởng thụ tự nhiên.
Như còn cha mẹ hiện tiền
Nhờ đó cũng đặng bách niên thọ trường.
Như cha mẹ bảy đời quá vãng
Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung
Người thời tuấn tú hình dung
Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân.
Phật lại bảo mười phương Tăng chúng
Phải tuân theo thể thức sau này:
Trước khi thụ thực đàn chay
Phải cần chú nguyện cho người tín gia.
Cầu thất thế mẹ cha thí chủ
Ðịnh tâm thần quán đủ đừng quên
Cho xong ý định hành thiền
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dưng
Khi thụ dụng, nên an vật thực
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự tiện thụ dùng bữa trưa.
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt
Mục Liên cùng Bồ-tát chư Tăng
Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục Liên cũng hết khóc thương rầu buồn.
Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ quỉ được tan.
Mục Liên bạch với Phật rằng:
Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn

Lại cũng nhờ oai thần Tam Bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra.
Như sau đệ tử xuất gia
Vu Lan Bồn pháp dùng mà độ sanh
Ðộ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không?
Phật rằng: Lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói, con trùng hỏi theo.
Thiện nam tử, Tỳ-kheo nam nữ
Cùng Quốc-vương, Thái-tử, Ðại thần
Tam-công, Tể-tướng, Bách quan
Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện tại cùng thất thế tình thâm
Ðến rằm tháng Bảy mỗi năm
Sau khi kiết hạ, chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật Ðà hoan hỷ
Phải sắm sanh bách vị cơm canh
Ðựng trong bình bát tinh anh
Chờ giờ Tự tứ, chúng Tăng cúng dường
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất thế đồng thì
Lìa nơi ngạ quỉ, sanh về nhơn, thiên
Ðặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn sanh Phật tử ân cần
Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu nguyện thung huyên an hảo
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh
Ngày rằm tháng Bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu thảo ân thâm phải đền.
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt
Ngõ cúng dường chư Phật chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu.
Ðệ tử Phật lo âu gìn giữ
Mới phải là Thích tử Thiền môn.
Vừa nghe dứt pháp Lan Bồn
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan
Mục Liên với bốn ban Phật tử
Nguyện một lòng tin thủ phụng hành.
Trước là trả nghĩa sinh thành
Sau là cứu vớt chúng-sanh muôn loài.
Bài Kệ Khen ngợi Ðức Mục-Kiền-Liên
Mục Liên tôn-giả,
Thay Phật tuyên hành
Gậy vàng vừa gõ
Cửa ngục băng thanh
Mọi người thoát tội
Tịnh Độ hóa sanh
Phúc tuệ mãi an lành
Nam-mô Đại-hiếu Mục-Kiền-Liên Bồ-tát (3 lần)

Một thuở nọ, Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra tới số hai muôn tám ngàn.

Lại cũng có các hàng Bồ-tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường.
Bây giờ, Phật mới lên đường
Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành.

Ðáo bán lộ, đành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng.

Ðức A Nan tủi lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương?
Vội vàng xin Phật dạy tường
Thầy là Từ Phụ ba phương, bốn loài

Ai ai cũng kính Thầy dường ấy
Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: Trong các môn đồ,
Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công

Bởi chưa biết đục trong cho rõ
Nên vì ngươi, ta tỏ đuôi đầu:
Ðống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài

Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh
Luân hồi sanh tử, tử sanh
Lục thân đời trước thi hài còn đây

Ta lễ bái kính người tiền bối
Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa
Ðống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi

Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai, bên nữ bên nam
Ðể cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.

Ðức A Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai
Ngài bèn xin Phật chỉ bày
Vì khó chọn lựa gái trai lúc này

Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân minh
Chớ khi rã xác tiêu hình
Xương ai như nấy khó nhìn khó phân.

Phật mới bảo: A Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Ðàn ông xương trắng nặng hoằng
Ðàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.

Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc, bốn đấu sữa hòa nuôi con

Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.
A Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh.

Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân?
Thế Tôn mới bảo lời rằng:
Vì ngươi, ta sẽ phân trần, khá nghe!

Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang
Tháng đầu, thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường.

Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ ràng.

Tháng thứ sáu lục căn đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn.

Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng thì đến kỳ sinh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn.

Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng, đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau, sự khổ, khôn cùng tỏ phân

Khi sản xuất muôn phần an lạc
Cũng ví như được bạc, được vàng.

Thế Tôn lại bảo A Nan:
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin.

Ðiều thứ nhứt: giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường châu đáo mọi bề.

Thứ hai: sanh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần.

Ðiều thứ ba: thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay.

Thứ tư: ăn đắng uống cay
Ðể dành bùi ngọt đủ đầy cho con.

Ðiều thứ năm: lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con.

Thứ sáu : bú sữa nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê.

Ðiều thứ bảy: không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền.

Thứ tám: chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền, mẹ lo.

Ðiều thứ chín: miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi, bị giam, bị cầm.

Ðiều thứ mười: chẳng ham trau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn.

Phật lại bảo: A Nan nên biết,
Trong chúng-sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân.

Chẳng kính mến quên ơn trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao
Ấy là bất hiếu mạc giao (“báo hiếu)( 莫 mạc: đừng)
Vì những người ấy đời nào nên thân.

Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy.

Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan.

Con còn nhỏ phải lo săn sóc
Ăn đắng cay, bùi ngọt phần con
Phải tắm phải giặt rửa trôn
Biết rằng dơ dáy, mẹ không ngại gì.

Nằm phía ướt, con nằm phía ráo
Sợ cho con ướt áo, ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương.

Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
Khi con vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng.

Cho đi học mở thông trí huệ
Dựng vợ chồng có thế làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi.

Con đau ốm tức thì lo chạy
Dầu tốn hao đến mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an thần định tâm.

Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn này
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ, lại bày ngỗ ngang.

Hỗn cha mẹ, phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh, nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân sư phụ, lễ nghi chẳng tường.

Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chống báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên.

Vì lỗ mãng tánh quen càn bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo thói hung hăng
Ðã không nhẫn nhịn, lại càng hành hung.

Bỏ bạn lành, theo cùng chúng dữ
Nết tập quen, làm sự trái ngang
Nghe lời dụ dỗ quân hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người.

Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân, tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công.

Vì ràng buộc đồn công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ, vì con
Quên cha, quên mẹ tình thâm
Quên xứ, quên sở, lâu năm không về.

Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hí mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài.

Theo trộm cướp, hoặc là bài bạc
Phạm tội hình, tù rạc phải vương
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng, bỏ thân ngoài đồng.

Hay tin dữ bà con cô bác
Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu
Thương con than khóc âu sầu
Có khi mang bịnh đui mù vấn vương.

Hoặc bịnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỉ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du.

Cứ mải miết với đồng bất chính
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời.

Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thốn thiếu mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng, bỏ liều chẳng thương.

Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa ( 悌 đễ: hòa thuận)
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai, dễ khiến hơn là nam nhi.

Song đến lúc, tùng phu xuất giá
Lo bên chồng chẳng sá bên mình
Trước còn lai vãng đến thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhàn.

Quên dưỡng dục song thân ân trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay!

Nếu cha mẹ la rầy quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng
Chớ chi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than.

Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay.

Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi
Đập vào mình, vào mũi, vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy đều rướm máu ướt đầm cả thân.

Ðến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng:
Bọn con quả thật tội nhân
Xưa nay chẳng rõ, không hơn người mù.

Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ân sâu.

Trước Phật tiền, ai cầu trần tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình?

Phật bèn dùng phạm thanh sáu món
Phân tỏ cùng đại chúng lắng nghe:
Ân cha, nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu.

Ví có người ân sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp Tu Di núi chẳng sai
Ðến trăm ngàn kiếp ân kia chưa vừa.

Ví có người gặp cơn đói rét

Nuôi song thân dâng hết thân này

Xương nghiền thịt nát phân thây

Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng.

Ví có người vì công sanh dưỡng

Tự tay mình khoét thủng song ngươi

Chịu thân mù tối như vầy

Ðến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu.

Ví có người cầm dao thật bén

Mổ bụng ra rút hết tâm can

Huyết ra khắp đất chẳng than

Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng.

Ví có người dùng ngàn mũi nhọn

Ðâm vào mình bất luận chỗ nào

Tuy là sự khó biết bao

Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền.

Ví có người vì công dưỡng dục

Tự treo mình, cúng Phật thế đèn

Cứ treo như vậy trọn năm

Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền.

Ví có người xương nghiền ra mỡ

Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình

Xương tan, thịt nát chẳng phiền

Ðến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng.

Ví có người vì công dưỡng dục

Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan

Làm cho thân thể tiêu tan

Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền.

Nghe Phật nói thảy đều kinh khủng

Giọt lệ tràn khó nỗi cấm ngăn

Ðồng thanh bạch Phật lời rằng:

Làm sao trả đặng ân thâm song đường?

Phật mới bảo các hàng Phật tử:

Phải lắng nghe ta chỉ sau này

Các ngươi muốn đáp ơn dày

Phải nên biên chép Kinh đây lưu truyền.

Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng

Cùng ăn năn những tội lỗi xưa

Cúng dường Tam Bảo sớm trưa

Cùng là tu phước, chẳng chừa món chi.

Rằm tháng Bảy đến kỳ Tự Tứ

Thập phương Tăng đều dự lễ này

Sắm sanh lễ vật đủ đầy

Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng.

Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ

Hoặc sanh về Tịnh Ðộ an nhàn

Ấy là báo đáp thù ân

Sanh thành dưỡng dục song thân của mình.

Mình cần phải tụng Kinh lạy Phật

Pháp Tam Quy, bậc nhất giới trai

Những lời ta dạy hôm nay

Các ngươi nhớ lấy từ đây phụng hành.

Ðược như vậy mới là khỏi tội

Bằng chẳng thì ngục tối phải sa

Trong năm đại tội kể ra

Bất hiếu thứ nhứt, thật là trọng thay.

Sau khi chết, bị đày vào ngục

Ngũ Vô Gián cũng gọi A Tỳ

Ngục này trong núi Thiết Vi

Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề.

Trong ngục này hằng ngày lửa cháy

Ðốt tội nhân hết thảy thành than

Có lò nấu sắt cho tan

Rót vào trong miệng tội cang hành hình.

Vì bất hiếu nên mình thọ khổ

Lột thịt ra máu đổ tràn lan

Lại có chó sắt cắn gan

Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhân.

Ở trong ngục có giường bằng sắt

Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong

Rồi cho một ngọn lửa hồng

Nướng quay chúng nó da phồng thịt phao.

Móc bằng sắt thương đao gươm giáo

Trên không trung đổ tháo như mưa

Gặp ai chém nấy chẳng chừa

Làm cho thân thể nát nhừ như tương.

Những hình phạt vô phương kể hết

Mỗi ngục đều có cách trị riêng

Như là xe sắt phân thây

Chim ưng mổ bụng, trâu cày lưỡi lê.

Nếu mà đặng chết liền đã đỡ

Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân

Ngày đêm chết sống muôn lần

Ðến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây.

Sự hành phạt tại A Tỳ ngục

Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân

Chúng ngươi đều phải ân cần

Thừa hành các việc phân trần khoảng trên.

Nhứt là phải Kinh nầy in chép

Truyền bá ra cho khắp Ðông Tây

Như ai chép một quyển nầy

Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn.

Nếu in được ngàn muôn quyển ấy

Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên

Do theo nguyện lực tùy duyên

Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền.

Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh

Lại hóa sanh về cõi thiên cung

Khi lời Phật giảng vừa xong

Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng.

Lại phát nguyện thà thân này nát

Ra bụi tro muôn kiếp chẳng nài

Dầu cho kéo lưỡi trâu cày

Đến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên.

Ví như bị bá thiên đao kiếm

Khắp thân này đâm chém phanh thây

Hoặc như lưỡi trói thân này

Trải trăm ngàn kiếp lời thầy chẳng sai.

Dẫu thân này bị cưa bị chặt

Phân chia ra muôn đoạn rã rời

Đến trăm ngàn kiếp như vầy

Chúng con cũng chẳng trái lời thầy khuyên.

Ðức A Nan kiền thiền đảnh lễ

Cầu Thế Tôn đặt để hiệu kinh

Ngày sau truyền bá chúng-sanh

Dễ bề phúng tụng kiên tinh tu hành

Phật mới bảo: A Nan nên biết

Quyển Kinh này quả thiệt cao xa

Ðặt tên “BÁO HIẾU MẸ CHA”

Cùng là “ÂN TRỌNG” thật là chơn kinh.

Các ngươi phải giữ gìn châu đáo

Ðặng đời sau, y giáo phụng hành.

Sau khi Phật dạy đành rành

Bốn hàng Phật tử rất mừng rất vui

Thảy một lòng vâng theo lời Phật

Và kính thành tin chắc vẹn tuyền

Ðồng nhau trở lại Phật tiền

Nhất tâm đảnh lễ, rồi liền lui ra.

BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

Tâm trí tuệ thanh thanh rộng lớn

Sáng trong ngần chẳng bợn mây trần

Làu làu một tánh thiên chân

Bao trùm muôn loại chẳng phân Thánh phàm.

Vẫn tâm ấy lặng trong sáng suốt

Cõi bờ kia một bước đến nơi

Trải lòng tròn đủ xưa nay

Công thành quả chứng tỏ bày đích đang.

Hàng Bồ-tát danh Quán Tự Tại

Khi tham thiền vô ngại đến trong

Thẩm vào trí huệ mở thông

Soi thấy năm uẩn đều không có gì.

Độ tất cả không chi khổ ách

Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra

Sắc, Không, chung ở một nhà

Không chẳng khác Sắc, Sắc nào khác Không.

Ấy Sắc tướng cũng đồng Không tướng

Không tướng y như tượng Sắc kia

Thụ, Tưởng, Hành, Thức phân chia

Cũng lại như vậy, cũng về chân không.

Tòa sắc tướng nhơn ông tạm đó

Các pháp kia tướng nọ luống trơn

Chẳng sanh chẳng dứt thường chơn

Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm.

Cớ ấy nên cõi trên không giới

Thể làu làu vô ngại thường chân

Vốn không ngũ uẩn ấm thân

Sáu căn chẳng có, sáu trần cũng không.

Thấy rỗng không mà không nhãn giới

Biết hoàn toàn thức giới cũng không

Tánh không sáng suốt đại đồng

Vô minh chẳng có mựa hòng hết chi.

Vẫn không có thân gì già chết

Huống chi là hết chết già sao

Tứ đế cũng chẳng có nào

Không chi là trí, có nào đắc chi.

Do vô sở đắc ly tất cả

Nhơn pháp kia đều xả nhị không

Vận lòng trí huệ linh thông

Bờ kia mau đến tâm không ngại gì.

Không quái ngại có chi khủng bố

Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên

Tâm không rốt ráo chu viên

Niết bàn quả chứng chơn nguyên hoàn toàn.

Tam thế Phật, y đàng Bát Nhã

Đáo Bồ Đề chứng quả chánh chơn

Cho hay Bát nhã là hơn

Pháp môn tối thắng cõi chơn mau về.

Thiệt thần chú linh tri đại lực

Thiệt thần chú đúng bực quang minh

Ấy chú tối thượng oai linh

Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần.

Trừ tất cả nguyên nhân các khổ

Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư

Thiên nhiên chơn thiệt bất hư

Án lam Thần chú Chơn Như thuyết rằng:

Yết-đế, Yết-đế, Ba La Yết-đế, Ba La Tăng Yết-đế, Bồ-Đề Tát Bà Ha (3 lần)

VÃNG SANH THẦN CHÚ

Nam-mô a di đa bà dạ, Ða tha dà đa dạ, Ða địa dạ tha.

A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ,

A di rị đa tì ca lan đế, A di rị đa tì ca lan đa,

Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta-bà ha. (đọc 3 lần)

TÁN PHẬT

Chúng Thích tử kiền thiền xưng tán

Đức Di Đà vô hạn lợi sanh

Bốn mươi tám nguyện viên thành

Hiện ra tướng tốt sắc thân tuyệt vời.

Kim sắc tướng muôn ngàn công đức

Khắp mười phương chẳng bậc sánh bằng

Bạch hào hiển hiện phóng quang

Sáu vầng chiếu sáng Di San năm tòa.

Cảnh thanh nhãn thấy xa vô ngại

Sáng trong ngần tứ đại hải dương

Hào quang hóa Phật không lường

Hóa chúng Bồ-tát số nương hằng hà.

Độ chúng-sanh Liên hoa chín phẩm

Nước Lạc bang là cảnh Tây-phương

Chí thành tâm niệm chiếu chương

Hiện tiền tăng chúng dẫn đường vãng sanh.

Nam-mô Tây-phương Cực-Lạc Thế-giới Đại-từ Đại-bi Tiếp-Dẫn Đạo-sư A-Di-Đà Phật

Nam-mô A-Di-Ðà Phật (3 lần)

Nam-mô Ðại-bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 lần)

Nam-mô Đại-Thế-Chí Bồ-tát (3 lần)

Nam-mô Địa-Tạng-Vương Bồ-tát (3 lần)

Nam-mô Đại-hiếu Mục-Kiền-Liên Bồ-tát (3 lần)

Nam-mô Thanh-tịnh Đại-Hải-Chúng Bồ-tát (3 lần)

Ðệ tử chúng con,

Vâng lời Phật dạy,

Ngày rằm tháng Bảy,

Gặp hội Vu Lan,

Phạm vũ huy hoàng,

Ðốt hương đảnh lễ.

Mười phương Tam thế,

Phật, Pháp, Thánh hiền,

Noi gương đức Mục-Kiền-Liên,

Nguyện làm con thảo.

Lòng càng áo não,

Nhớ nghĩa thân sanh.

Con đến trưởng thành,

Mẹ dày đau khổ.

Ba năm nhũ bộ,

Chín tháng cưu mang.

Không ngớt lo toan,

Quên ăn bỏ ngủ,

Ấm no đầy đủ,

Cậy có công cha,

Chẳng quản yếu già,

Sanh nhai lam lũ.

Quyết cùng hoàn vũ,

Phấn đấu nuôi con,

Giáo dục vuông tròn,

Ðem đường học đạo.

Ðệ tử ơn sâu chưa báo,

Hổ phận kém hèn,

Giờ này quỳ trước đài sen,

Chí thành cung kính,

Ðạo tràng thanh tịnh,

Tăng bảo trang nghiêm.

Hoặc thừa Tự tứ,

Hoặc hiện tham thiền,

Ðầy đủ thiện duyên,

Rủ lòng lân mẫn,

Hộ niệm cho:

Bảy kiếp cha mẹ chúng con,

Ðượm nhuần mưa pháp.

Còn tại thế:

Thân tâm yên ổn,

Phát nguyện tu trì.

Ðã qua đời:

Ác đạo xa lìa,

Chóng thành Phật quả.

Ngửa trông các đức Như-Lai,

Khắp cõi hư không,

Từ bi gia hộ.

HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC

Phúng Kinh công đức thù thắng hạnh.

Vô biên thắng phước giai hồi hướng

Phổ nguyện pháp giới chư chúng-sanh.

Tốc vãng Vô Lượng Quang Phật sát.

Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não.

Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu

Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.

Thế thế thường hành Bồ-tát đạo.

Nguyện sanh Tây-phương Tịnh độ trung.

Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu

Hoa khai kiến Phật ngộ Vô sanh.

Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ.

Nguyện dĩ thử công đức.

Phổ cập ư nhất thiết

Ngã đẳng dữ chúng-sanh.

Giai cộng thành Phật đạo.

TAM TỰ QUY Y

Tự quy y Phật , đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy)

Tự quy y Pháp , đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập Kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)

Tự quy y Tăng , đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)

HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức này,

Hướng về khắp tất cả,

Đệ tử và chúng-sanh,

Đều trọn thành Phật đạo. (1 lạy)