NGHI THỨC KINH VU LAN BỒN
TU VIỆN ĐẠI BẢO TRANG NGHIÊM
DÂNG HƯƠNG
Khói hương xông thấu mấy tầng xanh
Rốt ráo tâm con bổn nguyện lành
Trên khói hương này xin Phật ngự
Chứng minh đệ tử tấc lòng thành. O
LỄ PHẬT
Kính lạy Phật từ bi cứu thế
Đem đạo lành phổ tế chúng sanh
Trần gian biết nẻo tu hành
Nhờ đèn trí tuệ quang minh soi đường. O
LỄ PHÁP
Kính lạy Pháp là phương giải thoát
Gốc chơn truyền Y Bát từ xưa
Pháp tu chứng đắc kịp giờ
Độ người qua đến bến bờ bên kia. O
LỄ TĂNG
Kính lạy Tăng nghiêm trì giới luật
Hạnh Tăng vô nhất vật thanh bần
Tự mình giác ngộ lý chân
Giúp người giác ngộ chuyên cần công tu. O
XƯNG TỤNG PHẬT BẢO
Phật là đấng tối cao giác ngộ
Lập đạo tràng tế độ chúng sanh
Luật nghiêm giới cấm ban hành
Làm người dẫn lộ chỉ rành nẻo tu.
Cõi trần thế mịt mù tăm tối
Biết đâu là đường lối thoát thân,
Đầu tiên một bậc siêu nhân
Cất mình thoát tục bước chân lìa đời.
Nay đệ tử là người mong mỏi
Dứt trần duyên theo dõi học hành
Kính dâng một tấm lòng thành
Phụng thờ đức Phật đạo lành cao siêu. O
XƯNG TỤNG PHÁP BẢO
Pháp của Phật giáo điều chánh lý
Hạnh xuất gia khất sĩ thanh bần
Một y, một bát tùy thân
Pháp môn khất thực giáo dân độ đời.
Pháp giải thoát khỏi nơi thế sự
Vãng sanh về Phật xứ đạo tràng
Sống chung tu học dễ dàng
Tham thiền, nhập định mở đàng huyền môn.
Lời thuyết pháp hùng hồn cảnh tỉnh
Độ chúng sanh dứt bệnh hôn trầm
Quý thay diệu pháp thậm thâm
Chúng con hết dạ thành tâm phụng thờ. O
XƯNG TỤNG TĂNG BẢO
Tăng là các nhà sư thanh tịnh
Thể không không, chẳng dính bụi trần
Ly gia, cắt ái khinh thân
Dứt trừ bổn ngã lãnh phần độ sanh.
Tăng là kẻ thừa hành Phật pháp
Đem đạo mầu dạy khắp thế gian,
Hồng trần đám lửa cháy lan
Nước mưa cam lộ xối tràn tắt ngay.
Chư Thánh Tăng công dày vô hạn
Độ chúng sanh bao quản nhọc nhằn
Đội ơn cảm đức không ngằn
Chúng con thành kính lễ hằng dám sai. O
QUY Y TAM BẢO
Quy y Phật, con hết lòng kính Phật
Lượng từ bi con nguyện học theo Ngài
Thương chúng sanh khắp vũ trụ muôn loài
Một tánh giác, thể đại đồng vạn vật. O
Quy y pháp, con gắng tu học Pháp
Được thức tâm, giải thoát cõi lầm mê
Pháp vô sanh chư Phật thảy nương về
Bát chánh đạo cùng Tứ y chánh pháp. O
Quy y Tăng, con quý trọng nhà Tăng
Hòa hiệp chúng lẽ sống chung bình đẳng
Thanh tịnh giới thể trang nghiêm vắng lặng
Đức chứa đầy kiêm đủ cả tài năng.O
Dương chi tịnh thủy
Biến sái tam thiên
Tánh không bát đức lợi nhơn thiên
Pháp giới quảng tăng diên
Diệt tội tiêu khiên
Hỏa diệm hóa hồng liên
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần )
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. O 3 lần.
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)
Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (3 lần)
KHAI KINH KỆ
Vòi vọi không trên pháp thẳm sâu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe đặng chuyên trì tụng
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu. O
Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (3 lần)
KINH VU-LAN BỒN
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá-Vệ thành, Kỳ thụ viên trung
Mục-Liên mới đặng lục thông
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên
Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm.
Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ
Không uống ăn tiều tụy hình hài
Mục-Liên thấy vậy bi ai
Biết mẹ đói khát, ai hoài tình thâm
Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu
Đặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu
Thấy cơm, mẹ rất lo âu
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn
Lòng bỏn sẻn tiền căn chưa dứt
Sợ chúng ma cướp giật của bà
Cơm đưa chưa đến miệng và
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu!
Thấy như vậy âu sầu thê thảm
Mục-Kiền-Liên bi thảm xót thương
Mau mau về đến giảng đường
Bạch cùng sư phụ cầu phương cứu nàn.
Phật mới bảo rõ ràng căn tội
Rằng: “Mẹ ngươi gốc tội kết sâu
Dầu ngươi thần lực nhiệm mầu
Một mình không thể ai cầu đặng chi,
Lòng hiếu thảo của ngươi dẫu lớn
Tiếng vang đồn thấu đến Cửu tiêu
Dầu cho cảm động thần kỳ
Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên vương
Cộng ba cõi sáu phương tụ tập
Cũng không phương cứu cấp mẹ ngươi,
Muốn cho cứu đặng mạng người
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng.”
Phép cứu tế Phật toan giải nói
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn
Bèn kêu Mục thị đến gần
Truyền cho diệu pháp ân cần thiết thi:
“Rằm tháng Bảy là kỳ Tự tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Ngươi toan sắm sửa chớ chầy
Đồ ăn trăm món, trái cây trăm màu
Lại phải sắm sàng phu ngọa cụ
Cùng quán, bồn, đỉnh chút nhang, dầu
Món ăn tinh sạch báu mầu
Đựng trong bình bát vọng cầu kính dâng.
Chư Đại đức mười phương thọ thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thiên,
Lại thêm cha mẹ hiện tiền
Đặng nhờ phước lạc tiêu khiên ách nàn.
Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng tụ hội về
Như người thiền định sơn khê
Tránh điều huyên náo thẳng về thiền na,
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu hành nguyện tỏa vô sanh,
Hoặc người thọ hạ kinh hành
Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng,
Hoặc người đặng lục thông tấn phát
Dạy những hàng Duyên giác, Thinh văn,
Hoặc chư Bồ-tát mười phương
Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh…
Đều trì giới rất thanh, rất tịnh
Đạo đức dày chánh định chơn tâm,
Tuy là có bậc Thánh, phàm
Đồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa.
Người nào có sắm ra vật thực
Đặng cúng dường Tự tứ Tăng thời
Hiện tiền phụ mẫu của người
Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn,
Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên,
Ví như cha mẹ hiện tiền
Nhờ vậy sẽ đặng bá niên thọ trường,
Như cha mẹ bảy đời quá vãng
Sẽ hóa sanh về cảnh Thiên cung
Người thời tuấn tú hình dung
Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân.”
Phật lại bảo mười phương Tăng chúng
Phải tuân theo thể dụng sau này:
“Trước khi thọ thực đàn trai
Phải cầu chú nguyện cho người tín gia,
Cầu thất thế mẹ cha thí chủ
Định tâm thần quán đủ đừng quên,
Cho hay định ý hành thiền
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng.
Trước thọ dụng, tiên ban vật thực
Tại Phật tiền hoặc tại pháp trung
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự tiện lãnh dùng bữa trưa.”
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt
Mục-Liên cùng Bồ-tát các phương
Đồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục-Liên cũng hết khóc than rầu buồn
Mục-Liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan
Mục-Liên bạch với Phật rằng:
“Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn
Lại cũng nhờ oai thần Tam Bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra!
Như sau đệ tử Phật gia
Vu-Lan-Bồn pháp dùng mà độ sanh
Độ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không?”
Phật rằng: “Lời nói rất thông
Ta vừa muốn nói, ngươi trùng vấn theo.
Thiện nam tử, Tỳ-kheo nam nữ
Cùng quốc vương, thái tử, đại thần
Tam công, tể tướng, bá quan
Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần,
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện tại cùng thất thế tình thâm
Đến rằm tháng Bảy mỗi năm
Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật Trời hoan hỷ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Đựng trong bình bát tinh anh
Chờ giờ Tự tứ chúng Tăng cúng dường,
Đặng cầu nguyện song đường trường thọ
Chẳng ốm đau, chẳng có khổ chi
Cùng cầu thất thế đồng thì
Lìa nơi ngạ quỷ sanh về Nhơn, Thiên
Đặng hưởng nhờ phước duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân.
Môn sanh Phật tử ân cần
Hạnh tu hiếu thuận phải cần, phải chuyên
Thường cầu chúc thung huyên an hảo
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh
Ngày rằm tháng Bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu thảo ân thâm phải đền,
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt
Ngõ cúng dường chư Phật, chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu
Đệ tử Phật lo âu gìn giữ
Mới phải là Thích tử thiền môn.”
Vừa nghe dứt pháp Lan-Bồn
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan
Mục-Liên với bốn ban Phật tử
Nguyện một lòng tín sự phụng hành
Trước là trả nghĩa sanh thành
Sau lo cứu vớt chúng sanh muôn loài. O
* * *
Vu-Lan phép nhiệm rải hồng ân
Tự tứ oai linh chuyển lực thần
Phật Tổ từ bi truyền chánh giáo
Mục-Liên thành khẩn cứu từ thân
U minh thoát khỏi đường oan nghiệp
Trần thế truyền roi dấu pháp luân
Thong thả muôn thu niềm hiếu hạnh
Trung nguyên hoài niệm luống bâng khuâng. O
* * *
Chứng đắc thần thông đạo quả thành
Chạnh niềm nhớ lại tấm ơn sanh
Mở to mắt huệ nhìn soi khắp
Se thắt lòng son, bóng vắng tanh
Chua xót căn nguyên đường ngạ quỷ
Ngẩn ngơ hình phạt chốn u minh
Bát cơm dâng mẹ nhìn tha thiết
Hóa lửa than ôi, thảm sự tình! O
* * *
Sự tình bạch Phật rõ căn nguyên
Lệ đổ, lòng đau xót khẩn nguyền
Thắng hội Vu-Lan tuyên pháp nhiệm
Thần oai Tự tứ vận cơ huyền
Thánh Tăng ngày ấy ban ân phước
Vong mẫu từ nay thoát nghiệp duyên
Liên tưởng sau xưa niềm hiếu nghĩa
Hai phen cứu tế vĩnh lưu truyền. O
* * *
Lưu truyền sự tích mấy ngàn năm
Mỗi độ Thu sang, mỗi độ rằm
Sắm lễ Vu-Lan cam mỹ phẩm
Dâng Tăng Tự tứ chí thành tâm
Mẹ cha kiếp trước duyên thanh thoát
Cha mẹ đời này phước thậm thâm
Mãn nguyện nhơn sanh mùa báo hiếu
Nhớ ơn Tôn giả lụy khôn cầm! O
Nam-mô Đại hiếu Mục-Kiền-Liên Bồ-tát. O (3 lần)
KINH BÁO HIẾU PHỤ MẪU TRỌNG ÂN
Một thưở nọ Thế Tôn an trụ
Xá-Vệ thành Kỳ thụ viên trung,
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra tới số hai muôn tám ngàn,
Lại cũng có các hàng Bồ-tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường,
Bấy giờ Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành.
Đáo bán lộ đành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời,
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng.
Đức A-Nan tủi lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương?
Vội vàng xin Phật dạy tường
Thầy là Từ phụ ba phương bốn loài
Ai ai cũng kính thầy dường ấy
Cớ sao thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: “Trong các môn đồ
Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công,
Bởi chưa biết đục trong cho rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu:
Đống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài,
Chắc cũng có ông bà, cha mẹ
Hoặc thân ta, hoặc kẻ ta sanh
Luân hồi sanh tử, tử sanh
Lục thân đời trước thi hài còn đây.
Ta lễ bái kính người tiền bối
Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa.
Đống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái, bỏ bừa khó coi
Ngươi chịu khó xét soi cho lỹ
Phân làm hai, bên nữ bên nam
Để cho phân biệt cốt phàm
Không còn lẫn lộn nữ nam chất chồng.”
Đức A-Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai,
Ngài bèn xin Phật chỉ bày
Vì khó chọn lựa gái trai lúc này.
Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi, ăn mặc phân minh
Chớ khi rã xác, tiêu hình
Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân.
Phật mới bảo: “A-Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng:
Đàn ông xương trắng nặng oằn
Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.”
A-Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân?
Thế Tôn mới bảo lời rằng:
“Vì ngươi, ta sẽ phân trần khá nghe
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con thập nguyệt cưu mang,
Tháng đầu thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường,
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc,
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng,
Bốn tháng đã tượng ra hình,
Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ ràng,
Tháng thứ sáu lục căn đều đủ,
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn,
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ,
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình,
Mười tháng thì đến kỳ sinh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng, đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân…
Khi sản xuất muôn phần an lạc
Cũng ví như được bạc được vàng.”
Thế Tôn lại bảo A-nan:
“Ơn cha nghĩa mẹ nhiều phần phải tin.
Điều thứ nhất, giữ gìn thai giáo
Mười tháng thường chu đáo mọi bề,
Thứ hai sanh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần,
Điều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay,
Thứ tư ăn đắng nuốt cay
Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con,
Điều thứ năm, lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con,
Thứ sáu sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê,
Điều thứ bảy, không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền,
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo,
Điều thứ chín, miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi bị giam bị cầm,
Điều thứ mười chẳng ham trau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn.”
Phật lại bảo: “A-Nan nên biết,
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân,
Chẳng kính mến, quên ơn trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao,
Ấy là bất hiếu mặc giao
Vì những người ấy đời nào nên thân.
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy,
Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan,
Con còn nhỏ phải lo chăm sóc
Ăn đắng cay, bùi ngọt phần con,
Phải tắm phải giặt rửa trôn
Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì,
Nằm phía ướt, con nằm phía ráo
Sợ cho con ướt áo ướt chăn,
Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương,
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con,
Khi con vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng
Cho đi học mở thông trí huệ
Dựng vợ chồng có thế làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi,
Con đau ốm tức thì lo chạy
Dẫu tốn hao đến mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an thần định tâm…
Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn này?
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ, lại bày ngỗ ngang
Hỗn cha mẹ, phùng mang trợn mắt
Kinh trưởng huynh, nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân sư phụ, lễ nghi chẳng tường
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chống báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên…
Vì lỗ mãn tánh quen làm bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo thói hung hăng
Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung,
Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ
Nết tập quen làm sự trái ngang,
Nghe lời dụ dỗ quân hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người,
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công,
Vì ràng buộc đồng công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ, vì con
Quên cha, quên mẹ tình thâm
Quên sứ quên sở lâu năm không về…
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hý mà thôi,
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài
Theo trộm cướp hoặc là bài bạc
Phạm tội hình tù rạc phải vương,
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng, bỏ thân ngoài đồng…
Hay tin dữ, bà con cô bác
Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu
Thương con than khóc ưu sầu
Có khi mang bệnh đui mù vấn vương,
Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn,
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mài miệt với đàng bất chánh
Chẳng mấy khi thức tỉnh mộ khan
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời,
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương…
Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi,
Song đến lúc tùng phu xuất giá
Lo bên chồng, chẳng sá bên mình
Trước còn lai vãng viếng thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà,
Quên dưỡng dục song thân ân trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay,
Nếu cha mẹ la rày quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng
Chớ chi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than…
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang…”
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong lòng đại chúng lòng càng thảm thay
Gieo xuống đất lấy cây lấy củi
Đập vào mình, vào mũi, vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy đều rướm máu ướt đầm cả thân
Đến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng:
“Bọn ta quả thật tội nhơn
Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù!
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ân sâu?”
Trước Phật tiền, ai cầu trần tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình?
Phật bèn dụng Phạm thinh sáu món
Phân tỏ cùng đại chúng lóng nghe:
“Ân cha nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu!
Ví có người ân sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu-Di
Đến trăm ngàn kiếp ân kia chưa vừa!
Ví có người gặp cơn gió rét
Nuôi song thân dâng hết thân này
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng!
Ví có người vì công sanh dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Đến trăm ngàn kiếp ân này thấm đâu!
Ví có người cầm dao thiệt bén
Mổ bụng ra rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng!
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Đâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền!
Ví có người vì ân dưỡng dục
Tự treo mình cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy tròn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền!
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan thịt nát chẳng phiền
Đến trăm ngàn kiếp ân trên chưa đền!
Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền!...”
Nghe Phật nói thảy đều kinh khủng
Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn,
Đồng thinh bạch Phật lời rằng:
“Làm sao trả đặng ân thâm song đường?”
Phật mới bảo: “Các hàng Phật tử
Phải lóng nghe ta chỉ sau này,
Chúng ngươi muốn đáp ân dày
Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền,
Vì cha mẹ trì kiên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam Bảo sớm trưa
Cùng là tu phước chẳng chừa món chi,
Rằm tháng Bảy đến kỳ Tự tứ
Thập phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng
Đặng cầu nguyện song đường trường thọ
Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn,
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình!
Mình cần phải cần chuyên trì giới
Pháp Tam quy, Ngũ giới giữ gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Khá nên y thử phụng hành đừng sai.
Được như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa,
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất thật là trọng thay!
Sau khi chết bị đày vào ngục
Ngũ vô gián cũng gọi A-tỳ
Ngục này trong núi Thiết Vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề,
Trong ngục này hằng ngày lửa cháy
Đốt tội nhơn hết thảy thành than,
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhơn hành hình
Một vá đủ cho người thọ khổ
Lột thịt da đau thấu tâm can,
Lại có chó sắt rắn gang
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn,
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay chúng nó da phồng thịt đau,
Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ tháo như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ như tương…
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ bụng, trâu cày lưỡi le
Chớ chi đặng chết liền rất đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm chết sống muôn lần
Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây!
Sự hình phạt tại A tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân,
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành các việc phân trần khoản trên.
Nhất này phải kinh này in chép
Truyền bá ra cho khắp Đông, Tây
Như ai chép một quyển này
Ví bằng thấy đặng một vì Thế Tôn,
Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên,
Do theo nguyện lực tùy duyên
Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền
Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh Thiên cung…”
Khi lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng,
Lại phát nguyện thà thân này nát
Ra bụi tro muôn kiếp chẳng nài,
Dầu cho kéo lưỡi trâu cày
Đến trăm ngàn kiếp lời thầy không quên,
Ví như bị bá thiên đao kiếm
Khắp thân này đâm chém phân thây
Hoặc như lưới trói thân này
Trải trăm ngàn kiếp lời thầy chẳng sai,
Dẫu thân này bị cưa, bị chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã rời
Đến trăm ngàn kiếp như vầy
Chúng con cũng chẳng trái lời thầy khuyên.
Đức A-nan kiền thiền đảnh lễ
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu kinh
Ngày sau truyền bá chúng sanh
Dễ bề phúng tụng trì chuyên tu hành.
Phật mới bảo: “A-nan nên biết
Quyển kinh này quả thật cao xa
Đặt tên “BÁO HIẾU MẸ CHA”
Cùng là “ÂN TRỌNG” thật là chơn kinh.
Các ngươi phải giữ gìn châu đáo
Đặng đời sau y giáo phụng hành.”
Sau khi Phật dạy đành rành
Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui,
Thảy một lòng vâng theo lời Phật
Và kính thành tin chắc vẹn tuyền,
Đồng nhau tựu lại Phật tiền
Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra. O
Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (3 lần)
NAM MÔ BÁT NHÃ HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT.O
BÁT-NHÃ TÂM KINH
Khi hành Bát-nhã Ba-la
Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng
Thấy ra năm uẩn đều không
Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua.
Này Xá-Lợi Tử xét ra
Không là sắc đó, sắc là không đây
Sắc cùng không chẳng khác sai
Không cùng sắc vẫn sánh tày như nhau
Thọ, tưởng, hành, thức uẩn nào
Cũng như sắc uẩn một màu không không.
Này Xá-Lợi Tử ghi lòng
Không không tướng ấy đều không tướng hình
Không tăng giảm, không trược thanh
Cũng không diệt, cũng không sanh: pháp đồng
Vậy nên trong cái chơn không
Vốn không năm uẩn cũng không sáu trần
Mắt, tai, nũi, lưỡi, ý, thân
Vị, hương, xúc, pháp cùng phần sắc, thinh
Từ không giới hạn mắt nhìn
Đến không ý thức, vô minh cũng đồng
Hết vô minh cũng vẫn không
Hết già, hết chết, giả không có gì
Không khổ, tập, diệt, đạo kia
Trí huệ chứng đắc cũng là không không
Sở thành, sở đắc bởi không
Các vị Bồ-tát nương tùng tuệ năng
Tâm không còn chút ngại ngăn
Nên không có chút băn khoăn sợ gì
Đảo điên mộng tưởng xa lìa
Niết-bàn mới đến bên kia bến bờ
Ba đời chư Phật sau xưa
Đắc thành Chánh giác đã nhờ tuệ năng.
Trí huệ năng lực vô ngần
Đại minh vô thượng, đại thần cao siêu
Trí huệ năng lực có nhiều
Thật là thần chú trừ tiêu não phiền
Trí huệ năng lực vô biên
Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn.
Liền theo lời chú thuyết rằng:
Độ tha, giác ngộ khắp trần chúng sanh. O
Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (3 lần)
NGUYỆN VÃNG SANH
Muôn pháp không thường còn
Người sanh ắt có diệt
Sanh tử như thủy triều
Diệt tận, chơn phúc hiện.
Thác bền, sống không bền
Người đời ai cũng chết
Chết mục tiêu cuộc đời
Đúng y lời Phật dạy!
Kiếp sống trong ngắn ngủi
Chết thật là chắc chắn
Sớm muộn xác thân này
Trả về cho tứ đại.
Nhìn xem thể phách hoại
Xác như gỗ mục hư
Tánh thanh tịnh chơn như
Niết-bàn vô sanh diệt. O (3 lần)
TÁN THÁN PHẬT
A-Di-Đà Phật thân vàng
Tướng xinh, sắc tốt, minh quang ai bì
Bạch hào như núi Tu-Di
Mắt trông bốn biển so bì vẫn hơn
Hào quang hóa Phật vô ngần
Hóa Bồ-tát chúng vô cùng vô biên
Độ sanh bốn tám lời nguyền
Hàm linh chín phẩm đồng lên giác ngàn. O
Nam-mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi Tiếp dẫn Đạo sư A-Di-Đà Phật.
Nam-mô A-Di-Đà Phật (3 lần hoặc tùy ý) O
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát (3 lần) O
Nam-mô Đại Thế Chí Bồ-tát (3 lần) O
Nam-mô Đại Hiếu Mục-Kiền-Liên Bồ-tát. O (3 lần)
Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ-tát (3 lần) O
Nam-mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát (3 lần) O
SÁM THẬP PHƯƠNG
Mười phương ba đời Phật
Di-Đà đệ nhất danh
Độ sanh lên chín phẩm
Oai đức rộng thinh thinh.
Con nay quy y Phật
Diệt ba nghiệp mê tình,
Bao nhiêu phần phước đức
Hồi hướng khắp nhơn sanh,
Nguyện cùng người niệm Phật
Cảm ứng hiện điềm lành,
Lâm chung thấy Phật cảnh
Trước mắt hiện đành rành,
Thấy nghe đều tinh tấn
Cực Lạc đặng vãng sanh,
Thấy Phật dứt sanh tử
Như Phật độ hàm linh
Trừ vô biên phiền não
Tu vô lượng pháp lành
Chúng sanh nguyền tế độ
Phật đạo thảy viên thành.
Hư không còn có hết
Bổn nguyện vốn không cùng
Hữu tình, vô tình khắp
Trí huệ chứng viên thông. O
THẬP NGUYỆN
MỘT nguyền lễ kính Như Lai
HAI nguyền xưng tán công dày Thế Tôn
BA nguyền tu phước cúng dường
BỐN nguyền sám hối nghiệp vương tội trần
NĂM nguyền tùy hỷ công huân
SÁU nguyền thỉnh chuyển pháp luân độ người
BẢY nguyền thỉnh Phật ở đời
TÁM nguyền học Phật tùy thời phát minh
CHÍN nguyền hằng thuận chúng sanh
MƯỜI nguyền hồi hướng phước lành khắp nơi.O
HỒI HƯỚNG CẦU NGUYỆN
Tụng kinh niệm Phật được phước lành
Con xin hồi hướng chúng sanh hưởng nhờ.
Mênh mông biển khổ không bờ
Trần gian chìm đắm mịt mờ tối đen,
Bỗng đâu núi báu hiện lên
Tháp vàng rực rỡ vượt trên cao vời,
Cơ duyên Chánh pháp ra đời
Lối tu tối thượng độ người trầm mê,
Tinh thần nẻo thẳng cao xuê
Mà đường vật chất thấp nê bùn lầy,
Càng buông bỏ dưới chân này
Ấy là chỗ đứng càng ngày càng cao,
Nhiều người chung sức với nhau
Công phu tứ chúng góp vào điểm tô
Đạo vàng cao quý bày phô
Cũng vì lợi ích chung cho thế trần,
Hôm nay con mới góp phần
Nguyện xin tất cả xa gần hưởng chung,
Mỗi người học đạo tỏ thông
Tăng, Ni khất sĩ ra công thuyết bài,
Cầu xin Giáo pháp hoằng khai
Được thường tỏ sáng lại hay thơm lành,
Nguyện cho đạo đức thạnh hành
Cảnh đời Đông độ đổi thành Tây phương… O
Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (3 lần)
PHÚNG KINH
Tụng kinh công đức tuyệt vời
Xin đem hồi hướng khắp người gần xa
Chúng sanh pháp giới Ta-bà
Mau về cõi Phật Di-Đà Tây thiên. O
NGUYỆN TIÊU
Nguyện tiêu tam chướng não phiền
Nguyện thành trí huệ vô biên tuyệt vời
Nguyện bao nghiệp tội xa rời
Nguyện hành Bồ-tát đời đời độ tha. O
NGUYỆN SANH
Nguyện về Tịnh độ nước nhà
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình
Hoa khai ngộ pháp vô sanh
Bất thối Bồ-tát bạn lành dựa nương. O
TAM TỰ QUY Y
Tự quy y Phật
Cầu cho chúng sanh
Hiểu rõ đạo lành
Phát lòng vô thượng. O
Tự quy y Pháp
Cầu cho chúng sanh
Kinh luật hiểu rành
Trí huệ như biển. O
Tự quy y Tăng
Cầu cho chúng sanh
Hiệp chúng đồng tình
Chẳng hề trở ngại.O
CẦU NGUYỆN CHUNG
Ngưỡng cầu các đấng chư Thiên
Trong vòng tịnh xá ngự yên hằng ngày
Ngự nơi đền tháp xưa nay
Ngự nơi biệt thất, nơi cây bồ-đề
Chúng con xin hội họp về
Đặng dùng phước thí tiện bề cúng dâng.
Cầu xin hộ độ chư Tăng
Cửa thiền ẩn náu, phước Hằng hà sa,
Tỳ-khưu chẳng luận trẻ già
Cao hạ trung thấp hoặc là mới tu
Thiện nam, tín nữ công phu
Đều là tín chủ, cũng phù trợ nhân
Những người trong khắp thôn lân
Kiều cư châu quận được phần an khương
Chúng sanh bốn loại không thường
Noãn, thai, thấp, hóa khi nương pháp lành
Giải thoát pháp báu nên hành
Đặng mà dứt khổ chuyên quanh đọa đày
Cầu xin hưng thạnh lâu dài
Pháp thiện tri thức các Ngài mở mang
Bậc tu xin được bình an
Cầu cho Tăng chúng các hàng hòa nhau
Lại thêm phẩm hạnh thanh cao
Đắc quả lợi ích kíp mau kịp thì
Cầu xin Pháp bảo hộ trì
Cho người tu đã quy y Phật rồi
Xin cho hết thảy người người
Tiến hóa trong pháp Phật noi giáo truyền. O
HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức lành
Hồi hướng cho tất cả
hương ling với chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả. O