LUẬT KHẤT SĨ - PHÁP HỌC SA DI

LONG XUYÊN MÁY IN PHÁP ẤN 27-4-1954

CHƠN LÝ - TẬP 67 - PHÁP HỌC SA DI I - KỆ GIỚI - 10 GIỚI TẬP SỰ

KỆ GIỚI

1- Giới như trái đất

2- Định như cây trồng trên trái đất

3- Huệ như trái cây

Giới là nguồn cội của đạo Phật, giới còn thì đạo Phật vẫn còn, giới mất thì đạo Phật phải mất; giới ví như khuôn hình cái trống, để bảo thủ lấy cái tiếng đầm ấm thanh tao của nó; giới ví như bầu không khí để hộ lấy sự sống của muôn loài.

Giới ví như bức tường để ngăn cản các nẻo phóng tâm, chẳng cho lục trần thâm nhập, có giới mới có thể phân biệt được nẻo chánh đường tà; có giới mới có sự an vui hòa hảo; giới là cái nhơn sanh của giống người và trời, nghĩa là giới mới có thể bảo giữ cho con người được hoàn toàn tấn hóa.

Giới luật dắt dẫn người hành đạo từ thấp chí cao, tùy đẳng cấp, chớ sự tu hành chẳng phải không chuyên mà thành, không hành mà đắc. Giới ví như bờ biển, bao giờ cũng lài, cũng thấp, cũng bằng phẳng, chớ không phải dốc, đứng và hẩm sâu như các giếng, ao vậy. Vì thế nên vị nào hiểu rõ giới luật ấy rồi, thì hết lòng vui thích mà hành theo.

Điều luật mà Phật đã giáo huấn cho các hạng Thinh Văn rồi, ví dầu có điều chi uất trắc đến đỗi phải chịu luật tử hình đi nữa, cũng không thể nào ai dám bạo gan mà bỏ điều luật ấy. Cũng như nước trong biển cả, hằng giữ lấy mực nước cũ, chớ không vì một nguyên nhân gì mà phải đầy vơi như nước ở sông, ở rạch.

Bởi thế nên vị nào hiểu hết điều luật ấy rất lấy làm vui thích mà hành theo.

Những kẻ vì tính xấu, quyết lòng phá giới, làm cho người khác phải khổ tâm, hoặc che lấp các việc xấu của mình, mà bài xích kẻ khác, mình chưa đáng bực thầy mà tự xưng là thầy, không phải người cao siêu đức hạnh lại tự nhận là cao siêu đức hạnh, trong lòng chứa đầy ác dục, nhơ nhớp tựa như đống rác dưới thềm. Thánh chúng không thể chung cùng, nên xét lại hầu đem kẻ ấy ra khỏi Giáo hội lập tức; Ví dầu kẻ ấy có gượng ngồi chung trong đám hiệp hòa kia đi nữa, kẻ ấy ở trong Giáo hội cũng không còn giá trị trong Giáo hội mà chúng hiệp hòa lại phải khổ tâm với kẻ ấy, chẳng khác nào biển cả, không bao giờ chứa một cái tử thi, dầu có đi nữa, cũng bị nước biển lần đưa vào mé, rồi đưa tạt lên bờ!

Trong các đẳng cấp, của các hạng người trong xã hội, khi xuất gia vào thọ lãnh giới luật, mà Phật đã giáo hóa rồi, thì cần nhứt phải dứt bỏ danh vọng, thế lực, dòng dõi, tổ tông mà nhìn nhận lấy chủng tộc Sa môn, họ hàng Khất sĩ mới được. Ví như nước của các nguồn sông, khi chảy vào đến biển rồi cũng phải dứt bỏ cái nguyên chất của nó mà chung lấy một chất với nước biển.

Dầu cho có một số nhiều vị nhập Vô dư Niết bàn cùng là đắc Hữu dư Niết bàn đi nữa, trong Giáo hội cũng không đến nỗi phải thưa thớt quạnh hiêu, hay là đông đầy náo nhiệt. Ví như nước của các nguồn sông, rạch, cùng nước ở trên không trung, sa vào biển cả, cũng không thể làm cho biển cả vì lẽ ấy mà phải đầy, vơi sái mực.

Giới luật chỉ đồng một phẩm vị giải thoát, ví như nước trong biển cả, chỉ có một chất mặn mà thôi.

Giới luật có nhiều điều quý báu, hằng làm cho con người đặng mở mang tấn hóa, những điều ấy như vầy: bốn chỗ niệm, bốn ý dứt, bốn pháp mầu, năm căn, năm lực, bảy phần Bồ đề, tám món Thánh đạo là những pháp quá cao thượng, ví như trong biển cả có nhiều vật báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, châu đỏ, mã não, những vật báu ấy chỉ thường có nơi đáy biển.

Giới luật là nơi dung thân của những bậc thiện căn, như: Tu Đà Huờn đạo, Tu Đà Huờn quả, Tư Đà Hàm đạo, Tư Đà Hàm quả, A Na Hàm đạo, A Na Hàm quả, A La Hán đạo, A La Hán quả; cũng ví như biển cả, là nơi cư trú của những loài cá lạ to lớn khác thường.

Những giới cấm mà Phật đã hạn định cho các đệ tử đó, có mười điều lợi ích như vầy:

1. Đặng sự tốt cho nhà đạo.

2. Đặng sự an vui cho nhà đạo.

3. Đặng đè nén những bọn dễ nuôi phạm giới.

4. Đặng sự an ổn cho những bậc trì giữ giới luật.

5. Đặng ngăn đón các pháp ác trong đời hiện tại.

6. Đặng ngăn đón các pháp ác trong kiếp vị lai.

7. Đặng dìu dắt những kẻ dữ về lành.

8. Đặng dìu dắt những kẻ sẵn lành cho càng thêm tấn hóa.

9. Đặng bảo tồn pháp luật.

10. Đặng nâng cao pháp luật.

Nên thừa truyền giới luật ra, cho những kẻ nào đã phạm, hoặc tùng phạm rõ biết rằng: Giới luật mà người đã phạm đó, đức Thế Tôn đã hạn định ra, bởi nguyên nhân trước kia có một vị đã phạm như vậy. Thế thì người tu Phật cần nhứt phải giữ giới luật, nếu muốn giữ được hoàn toàn tinh tấn, thì phải cần biết giới luật có bảy đặc ân như vầy:

1. Giới luật giúp cho kẻ thật hành, đoạt đạt được cái giác.

2. Giới luật giúp cho kẻ thật hành, xa lìa sự tu hành thiên về một bên, để tìm sự vui sướng.

3. Giới luật giúp cho kẻ thật hành, được tránh khỏi bốn đường ác đạo.

4. Giới luật giúp cho kẻ thật hành, được dứt khỏi các điều phiền não.

5. Giới luật giúp cho kẻ thật hành, dứt khỏi các tội lỗi về tình dục.

6. Giới luật giúp cho kẻ thật hành, rửa sạch các pháp chẳng lành nơi thân, khẩu, ý.

7. Giới luật giúp cho kẻ thật hành, đắc hai bậc Thánh quả, Nhập lưu và Nhứt lai.

Giới luật phác họa ra sao? Phải để y như vậy, không bao giờ được sửa đổi, nếu sửa đổi thì không còn đạo Phật, giới luật là một điều cần thiết cho Giáo hội. Bởi vậy trên thế gian này, kẻ nào có duyên với Phật, đã theo đạo thì phải theo chế độ nhất định; nên chi Phật đạo ví như biển cả, nước ở đâu đâu, như ở sông, ở rạch, hoặc ở không trung, chảy vào biển rồi đồng hóa một màu, trong Giáo hội cũng thế, dầu sang, hèn, trí ngu gì, vào Giáo hội rồi, cũng coi nhau đồng một hạng, mặc dầu căn cơ độn lợi, hễ người thông minh thì hết lòng thương mà dìu dắt kẻ tối tăm, ấy là do nơi, giới luật mà được vậy. Giới luật là một chế độ rất khít khao, chặt chẽ, cho đến mỗi vị thọ Cụ túc giới rồi, dầu cho đi, đứng, ngồi, nằm, dầu cho đăng đàn thuyết pháp, dầu cho trì bình khất thực, mỗi cách hành vi đều có giới luật nghiêm răn. Tu là trau, sửa, hễ tu hành thì đức hạnh làm gốc, mà đức hạnh do giới luật phát sanh, nếu nghiêm trì giới luật, tu hành chín chắn, đó tức là con đường giải thoát! Giới luật là món đắc dụng cho kẻ tu hành, ví như nền tảng chắc chắn để cất lầu cao, lại ví như bờ rào rất khít khao, không cho vọng tâm phóng túng.

Một người thay mặt cho Phật thật không phải dễ, mỗi cách hành động như đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, mặc, nói, làm, mỗi cách cư xử đều phải giống y Phật, cho đặng thiện tín, hễ thấy Tăng cũng như thấy Phật. Tăng chúng chỉ giữ giới, tướng mạo trang nghiêm, ở ăn theo Phật, cũng đủ khêu gợi được lòng tín ngưỡng của bá tánh. Tăng chúng thay mặt cho Phật, ít ra cũng phải học hỏi uyên thâm, ngõ hầu hiểu thông và giảng lại những lý thuyết rất cao siêu, huyền diệu mà Phật đã thấy khó cho chúng sanh, sau khi thành Chánh đẳng, Chánh giác. Người thay mặt cho Phật lẽ đương nhiên mỗi mỗi phải y theo Phật, phải trọn lòng vâng chịu theo chế độ của Giáo hội Tăng già; theo chế độ ấy, dầu cho tâm chưa được hoàn toàn trong sạch, chớ nết hạnh cũng được sửa đổi rất nhiều, cũng như đức hạnh đáng cho thiện tín cúng dường, sùng bái! Một người trước khi xuất gia để vào Giáo hội, phải chịu đủ điều kiện bắt buộc theo luật xuất gia. Làm lễ xuất gia xong, phải giữ giời tập sự, chịu các điều khổ hạnh trong một thời gian nhứt định, ấy cũng là phương pháp nung đúc lòng kiên nhẫn của người tu. Bởi tu Phật cần nhứt phải kiên tâm, trì trí, đến khi vào hàng xuất gia thiệt thọ rồi, lại phải chịu câu thúc trong vòng giới luật, chịu dưới chế độ của Giáo hội cho đến trọn đời, nếu không chí quả quyết, giữa đường trở lại, hoặc tâm không sạch, chất chứa bụi trần, đã không xứng đáng làm người thay mặt cho Phật, lại thêm một mối hại cho Phật, pháp nữa. chế độ của Giáo hội là những quy củ chuẩn thẳng, để bó buộc Tăng chúng cùng chung khuôn khổ, để nâng cao địa vị của mình, cho đặng thọ hưởng lòng ham mộ cúng dường của thiện tín; chế độ khuôn khổ ấy giúp người nghiêm giữ nó, chiến thắng biết bao nhiêu trận giặc một cách vẻ vang, khí cụ ấy tức là giới luật vậy.

Cũng như các chế độ khác, đạo Phật được thạnh hành chừng nào, thì chế độ của Giáo hội lại càng thắt chặt chừng nấy.

Những ai muốn theo đạo Phật mà không chịu nghiêm trì theo chế độ của Giáo hội, tức khi giáo pháp; khi giáo pháp tức khi Phật; khi Phật tức khi tâm; mình không kể cái tâm của mình, để cho nó tự do phóng túng, chừng nó phóng túng được rồi, tưởng không việc ác nào mà chẳng dám làm.

Phương chi trong Giáo hội, đều là những người đã ly gia cắt ái, muốn tu Vô thượng Bồ đề, tự nhiên phải nghiêm trì giới luật, bởi chưng giới luật là bá hạnh vi tiên. Giới luật chẳng trì giữ, quả Bồ đề đâu được đắc thành; Tiên triết xưa có nói: Chúng sanh thọ giới, tức là vào ngôi chư Phật; giới năng sanh định, định năng phát huệ, huệ năng minh tâm, minh tâm kiến tánh là thành Phật; xưa nay thành Phật, Thánh cũng đều do giới luật vậy; muốn tu hành thì phải nghiêm giữ giới luật phát đại nguyên dõng mãnh tinh tấn, mới đạt quả Niết bàn đặng.

Ấy vậy trong phạm vi chật hẹp, giới luật có thể nâng cao địa vị người lên nẻo tối cao, cho đặng giải thoát phiền não cõi trần, thật quý báu vô cùng! Nên chi Phật đã ân cần dặn bảo, người tu hành há dám dể duôi mà hờ hững hay sao? Tóm lại, muốn xuất gia tu Phật, phải hoàn toàn chịu chế độ nghiêm luật của Giáo hội Tăng già.

MƯỜI GIỚI TẬP SỰ SA DI

1- Giới thứ nhứt; Cấm sát sanh

2- Giới thứ hai; Cấm trộm cắp

3- Giới thứ ba; Cấm dâm dục

4- Giới thứ tư; Cấm nói láo

5- Giới thứ năm; Cấm uống rượu

6- Giới thứ sáu; Cấm chưn diện

7- Giới thứ bảy; Cấm ca hát cờ bạc

8- Giới thứ tám;Cấm ngồi ghế cao,nằm giường rộng

9- Giới thứ chin; Cấm ăn sái giờ

10- Giới thứ mười; Cấm giữ tiền, bạc, vàng

1- Giới thứ nhất: CẤM SÁT SANH

Trên ví đến chư Phật thánh, thầy cùng cha mẹ, dưới cho đến những loài bò bay máy cựa, côn trùng nhỏ nhít, nếu có mạng sống là chẳng đặng giết hại: hoặc mình giết, hoặc xúi người giết, hoặc thấy giết mà vui lòng, đều phạm giới sát cả! Ngày xưa những nhà đạo đức từ tâm, qua mùa Đông bắt rận bỏ ống tre, phủ bông gòn cho ấm, vì sợ chúng đói lạnh mà chết đi! Lại như sự lược nước, vì sợ uống lầm giết mạng vi trùng; sự che đèn, vì sợ con thiêu thân uổng tử; chẳng dám nuôi mèo, nuôi chồn, vì sợ chết nhiều con vật khác! Ấy đó là việc làm của người đã chứng đạo từ bi! Loài nhỏ nhít mà lòng thương xót dường ấy, huống hồ mạng sống to lớn, quan hệ đến bực nào?

Ngày nay dầu ta chẳng làm được như người xưa, chớ lẽ nào ta lại giết hại? Như có thấy người giết, ta nên dùng lời khôn khéo, khuyên nhắc người phát khởi từ tâm, rộng ơn tha mạng sống ấy, khiến cho đương lúc ngặt nghèo, bỗng trở nên yên úy, cám cảnh biết ngần nào! Vậy nên nhớ rằng: sự sanh tử luân hồi là bởi tại dây oan trái, muốn giải thoát phải tháo mở hận thù.

2- Giới thứ hai: CẤM TRỘM CẮP

Nếu không phải của người cho thì chẳng đặng lấy, chẳng những vàng bạc là vật báu quý mà thôi, mà đến những vật hèn hạ như mũi kim, ngọn cỏ, cũng vậy nữa, hoặc của chúng Tăng, hoặc của quan, của dân, của hết thảy, hoặc cướp lấy, trộm lấy, dối trá mà lấy đến như sự dối dò, thảy đều là trộm đạo.

Xưa có kẻ Sa di lấy trộm của Giáo hội 7 trái cây, một Sa di khác nữa lấy trộm của chúng Tăng vài cái bánh, một Sa di khác nữa lấy trộm của chúng Tăng chút đỉnh đường phèn, cả ba đều đọa địa ngục:

Vậy nên nhớ rằng: thà để chặt tay chớ chẳng lấy của quấy.

3- Giới thứ ba: CẤM DÂM DỤC

Kẻ tại gia giữ năm giới, ấy chỉ ngăn việc tà dâm, chớ người xuất gia thọ mười giới, phải dứt hẳn sự dâm dục, nếu chẳng ngăn ngừa để phạm gọi là phá giới.

Xưa có một Ni cô trong tâm móng khởi dâm dục bèn nói như vầy: chẳng phải sát sanh, chẳng phải trộm đạo thì không tội báo vậy. Kẻ ấy cả thân mình túa ra lửa dữ, sa về chốn địa ngục! Người đời bởi do lòng dục mà giết hại thân mình, tiêu tan sự nghiệp; ta mong đổi, phàm làm Thánh, theo đạo bỏ đời, há lại phạm như vậy hay sao? Há không biết dâm dục là nguồng gốc của sự sanh tử luân hồi hay sao?

Vậy nên chớ rằng: dâm dục mà sống đi nữa cũng chẳng bằng trinh khiết mà chết!

4- Giới thứ tư: CẤM NÓI LÁO

Nói láo có bốn thứ:

1. Một là vọng ngữ: Lấy phải làm quấy, lấy quấy làm phải, thấy nói chẳng thấy, chẳng thấy nói thấy, gọi là chẳng thiệt.

2. Hai là ỷ ngữ: Khoe khoang ỷ thị, trau chuốt lời nói, ra tuồng màu mè, hồ mị, ỏng ẻo, làm cho mỗi câu văn để quyến rũ người, say mê xiêu lòng lạc dạ.

3. Ba là ác khẩu: Miệng dữ hỗn xược, mắng nhiếc, rủa sả người ta.

4. Bốn là lưỡng thiệt: Hai lưỡi đâm thọc, tới ở đây nói chuyện đằng kia, tới đằng kia nói chuyện ở đây, châm chích cho người xa lìa ân nghĩa, ghẹo chọc cho người nóng nảy đua tranh! Nhẫn đến trước khen sau chê, mặt phải lưng quấy, nói tội cho người, nói xấu chuyện người…, đều phạm về giới thứ tư vậy!

(Cũng như chưa dứt lòng phàm mà nói chứng quả Thánh, ấy thật đại vọng ngữ, tội nặng vô cùng). Chỉ trừ lúc gặp người tai nạn gấp rút, lòng từ bi dùng phương chước khéo trợ cứu, ấy chẳng phạm mà thôi; Người đời xưa hạnh nết thuần lương, tự nhiên chẳng bao giờ nói vọng, huống chi mình nay là người đạo, lìa bỏ cảnh đời, mà còn đeo mang nghiệp quấy hay sao!

Kinh có chép rằng: Một Sa di kia chê cười một vị Tỳ kheo, tụng kinh như tiếng chó sủa, mà vị Tỳ kheo ấy thiệt là bực A La Hán chẳng chấp, lại đi dạy Sa di sám hối, cho nên Sa di đó khỏi đọa địa ngục, nhưng còn phải mang thân chó; một lời nói dữ mắc hại biết dường nào!

Vậy nên nhớ rằng: con người ở đời có búa để sẵn trong miệng, nói lời nói dữ, ấy là mình chém thân mình!

5- Giới thứ năm: CẤM UỐNG RƯỢU

Rượu là món rất hại, chỉ trừ cơn bịnh nặng phải dùng làm thuốc đó thôi, nhưng nếu chưa trình cho Giáo hội hay biết, thì một nhỏ chẳng đặng thấm môi, cho đến chẳng đặng ngửi mùi rượu, chẳng đặng ngửi tại quán rượu, chẳng đặng lấy rượu cho người uống!

Xưa có một người thiện nam, nhơn phá giới rượu, mà phạm luôn 36 lỗi khác, ấy thật là chỉ có một lần uống no đủ, mà biết bao lần chịu thiếu thốn, về sự mất phước an vui, thêm tội khổ sầu, đời đời mê muội, mất giống trí huệ, loạn vọng điên cuồng, thật là dữ hơn thuốc độc; người tại gia còn thế, lại như kẻ xuất gia, nếu uống rượu, thật tủi hổ cho tiếng nhà sư!

Vậy nên nhớ rằng: thà uống nước đồng sôi chớ chẳng uống rượu!

6- Giới thứ sáu: CẤM CHƯNG DIỆN ĐEO BÔNG

Chẳng đặng trau dồi về sự mặc, chẳng đặng dùng phấn sáp, dầu thơm, đeo bông.

Phật dạy: Tam y chỉ dùng bô bố to về xấu xí, cấm hẳn tơ lụa nhiễu hàng, sợ e lông thú ruột tằm, những sinh mạng vì mình chết thảm, lòng từ bi bao nỡ mặc cho đành!

Nhà Hạ vua Võ mặc áo xấu, ông Công Tôn dùng mền vải ấy là bậc vương thân quyền quới nhất đời, chẳng se sua chưng diện, nay người đạo há tham huê dạng mà làm việc trái ngược hay sao? Ca sa hoại sắc, rách rưới, tạm che hình đó mới hạp đạo! Xưa có người ba mươi năm đi có một đôi giày, ngày nay có ai được vậy?

7- Giới thứ bảy: CẤM CA HÁT, CỜ BẠC

Chẳng đặng đờn ca hát xướng, cũng chẳng đặng tới nghe, xem. Xưa có vị tiên nhơn, bởi nghe gái hát, âm thanh dịu dàng mà phải dứt mất phép linh; nghe xem còn hại dường ấy, huống chi tự mình hát xướng, vui chơi. Ta vì đường sanh tử, bỏ tục tầm thanh, há còn đi ham vui theo đường bất chánh, kỵ nhạc chơi bời, cờ bạc, các cách chơi tiêu khiển, giải trí của người đời đều nguy hại cho lòng đạo cả!

8- Giới thứ tám: CẤM NGỒI GHẾ CAO, NẰM GIƯỜNG RỘNG

Phật dạy: Giường nằm không cao quá tám ngón tay (4 tấc), nếu trên nữa là phạm, chẳng đặng chạm trổ sơn vẽ, cùng chưng, treo màn chấn lụa là!

Người xưa dùng cỏ lót ngồi, nghỉ qua đêm dưới gốc cây, nay có giường chõng, kể đã hơn nhiều lắm vậy, lẽ nào còn tham rộng lớn buông lung vóc huyễn hay sao? Ông Hiếp Tôn Giả trọn đời lưng không dính chiếu. Ông Cao Phong Diệu thiền sư, ba năm nguyện đứng chẳng nương giường. Ông Ngộ Đạt thọ nhận trầm hương tòa, tổn phước mà mắc báo! Ta nên coi những gương ấy hầu sửa mình.

9- Giới thứ chín: CẤM ĂN SÁI GIỜ

Hàng chư Thiên ăn sớm mai, Phật ăn giớ ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỷ ăn đêm! Người tu học Phật, chẳng ăn quá giờ ngọ, loài ngạ quỷ nghe khua bát thì trong cổ khát khao phừng lửa, cho nên ăn trong giờ ngọ hãy còn vắng vẻ, huống hồ quá ngọ. Xưa có vị cao tăng, nghe vị sư gần bên sau giờ ngọ còn nổi lửa, bất giác Ngài sa nước mắt, thương trong Phật pháp suy đồi; chỉ trừ người vóc yếu bịnh nhiều, món ăn chiều ấy như món thuốc, chữa lành bịnh rồi thôi!

Kỳ dư ai trái lời Phật dạy, thật đáng tủi hổ! Thương kẻ đói lòng, chẳng nỡ ăn nhiều, chẳng đành ăn ngon, chẳng an lòng mà ăn, phải như vậy! Bằng chẳng đặng vậy, ắt mắc tội nặng nề! Chưa phải bịnh nặng mà ăn sau giờ ngọ, không đáng gọi là bực Sa di vậy!

10- Giới thứ mười: CẤM GIỮ TIỀN, BẠC, VÀNG

Thuở Phật sanh tiền, chư Tăng đều đi khất thực, chùa không lửa khói. Vật ăn, đồ mặc, chỗ ở, thuốc men đều nhờ nơi những người cư sĩ hộ trì Phật pháp, nên tiền bạc không chỗ dùng, Phật cấm nghe biết, huống chi cầm giữ!

Xưa nhà nho thanh bạch, chẳng đoái của bằng vàng. Nay ta Khất sĩ, xưng nghèo, chứa của để làm gì; người tu đời nay không phải Khất sĩ, nên chi lúc ở am chùa hoặc đi phương xa, cũng chưa khỏi dụng phí tiền bạc, trái lời Phật dạy dường ấy, hổ mang danh Phật tử vô cùng! Hãy thương kẻ ngặt nghèo, thường hành bố thí, chớ cầu nhiều, chớ chứa để, chớ buôn bán, chớ dùng của báu trau dồi xác thân, ăn mặc đơn giản thanh bần mới phải người tu giải thoát.

TỨ Y PHÁP TRUNG ĐẠO

1) Người tu xuất gia: Phải lượm những vải bỏ mà đâu lại thành áo, nhưng có ai cúng vải, đồ cũ thì được nhận.

2) Người tu xuất gia: Chỉ ăn đồ xin mà thôi, nhưng ngày hội thuyết pháp, được ăn tại chùa.

3) Người tu xuất gia: Phải nghỉ dưới cội cây, nhưng có ai cúng lều am nhỏ bằng lá một cửa thì được ở.

4) Người tu xuất gia: Chỉ dùng phân uế của bò mà làm thuốc trong khi đau, nhưng ai cúng thuốc, đường, dầu thì được dùng.

250 GIỚI XUẤT GIA TRUNG ĐẠO

Tứ phần luật Tỳ kheo (Khất sĩ)

Giới bổn (Tam y nhứt bát)

8 ĐIỀU LẠ CỦA BIỂN

1- Bực bao giờ cũng lài thấp

2- Nước vẫn giữ mực thường

3- Không bao giờ chứa tử thi

4- Các nước tuôn vào biển hóa một màu

5- Dầu thêm bớt cách mấy cũng tự nhiên

6- Chất mặn không thay đổi

7- Trong biển có nhiều vật báu

8- Trong biển có nhiều quá thú to lớn

8 ĐIỀU LẠ CỦA PHÁP LUẬT

1- Dẫn dắt người hành đạo từ thấp chí cao

2- Điều luật không ai vì lẽ gì dám bỏ

3- Kẻ nhơ nhớp sẽ bị sa thải

4- Bình đẳng như nhau không giai cấp

5- Giáo hội dầu thêm bớt vẫn y nhiên

6- Pháp vị đồng một phẩm vị giải thoát

7- Pháp luật có 37 phần chánh giác

8- Pháp luật là nơi dung thân của hiền thánh.

10 ĐIỀU LỢI ÍCH CỦA PHÁP LUẬT

1- Đặng sự tốt cho Tăng

2- Đặng sự an vui cho Tăng

3- Đặng đè nén những kẻ dể duôi phá giới

4- Đặng yên ổn cho bậc Tỳ kheo giữ giới

5- Đặng ngăn đón các pháp ác trong đời hiện tại

6- Đặng ngăn đón các pháp ác trong kiếp vị lai

7- Đặng dìu dắt kẻ dữ về lành

8- Đặng dìu dắt kẻ sẳn lành cho thêm tấn hóa

9- Đặng bảo tồn pháp luật

10- Đặng nâng cao pháp luật

7 CÁI ĐẶC ÂN CỦA GIỚI LUẬT

1- Giúp cho kẻ thật hành đạt được 3 cái giác

2- Giúp cho kẻ thật hành xa lìa sự tu hành một bên

3- Giúp cho kẻ thật hành tránh khỏi 4 đường ác đạo

4- Giúp cho kẻ thật hành dứt khỏi các điều phiền não

5- Giúp cho kẻ thật hành dứt các tội lỗi của tình dục

6- Giúp cho kẻ thật hành rửa sạch các pháp ác nơi thân, khẩu

7- Giúp cho kẻ thật hành đắc quả Nhập lưu và Nhứt lai.

4 GIỚI TRONG SẠCH (THÀNH TỰU)

1- Giới thành tựu do sự thu thúc theo giới bổn

2- Giới thành tựu do sự thu thúc lục căn

3- Giới thành tựu do sự chánh mạng

4- Giới thành tựu do sự nương theo phép quán tưởng trước rồi mới dùng bốn món vật dụng

5 PHẬN SỰ CỦA PHẬT

1- Trong buổi mai Ngài ngự đi trì bình khất thực

2- Trong buổi chiều Ngài thuyết pháp

3- Trong buổi hoàng hôn Ngài giáo hóa chư Tăng

4- Trong canh khuya Ngài đáp lời vấn của chư Thiên

5- Trong canh năm Ngài xem xét chúng sanh về nhơn duyên.

4 PHÁP THÁI QUÁ CỦA KẺ NON NÚI

1- Nhịn đói không ăn uống

2- Lõa lồ không mặc đậy

3- Mưa nắng phơi ngoài trời

4- Đau liều mạng không uống thuốc

4 PHÁP BẤT CẬP CỦA NGƯỜI THÀNH THỊ

1- Ăn nhiều bữa lựa món ngon

2- Mặc khoe khoang dư dã

3- Ở nhà ngói lầu đài

4- Không đau mà uống thuốc bổ dưỡng, cất dành

26 ĐIỀU NUÔI MẠNG TÀ KIẾN ĐỐI VỚI CƯ SĨ

1- Giả cách làm tề chỉnh

2- Giả cách làm vui vẻ

3- Nói ướm

4- Giả bộ hăm dọa

5- Được nơi đây cho nơi kia, được nơi kia cho nơi đây

6- Cho tre

7- Cho cây lá

8- Cho bông hoa

9- Cho cây trái

10- Cho cây xỉa răng

11- Cho nước rửa mặt

12- Cho vật để tắm

13- Cho vật để thoa dồi

14- Cho đất của Tăng

15- Tôn kính kẻ thế

16- Thật ít, dối nhiều

17- Giữ giùm con cho người

18- Làm tay sai cho người

19- Làm thầy thuốc cho người

20- Làm kẻ đem tin cho người

21- Dâng mình cho người sai việc

22- Đem cơm cho người rồi đi xin sau mà ăn

23- Cho đi cho lại

24- Xem thiên văn địa lý

25- Xem ngày tháng sao hạn cho người

26- Xem tài tướng và xem thai đàn bà.

KINH PHƯỚC THÍ Thành kính là phước báu.

Quên mình là cội phước.

Phước là sự bố thí.

Cầu xin cho tín chủ mau đến quả trì giới.

Phước thí là con đường nhẫn nhục.

Cầu xin cho tín chủ mau đến quả thiền định.

Phước thí là con đường tinh tấn.

Cầu xin cho tín chủ mau đến quả trí huệ.

Phước thí là con đường vô lậu.

Cầu xin cho tin chủ mau đến quả chơn như.

Phước thí là con đường giải thoát.

Cầu xin cho tín chủ mau đến quả an lạc.

Phước thí là hạng người, thần, trời.

Cầu xin cho tín chủ mau đến quả Niết-bàn.

Phước thí thuận xuôi theo nguồn chơn lý.

Là sự gieo trồng giống lành vào ruộng phước.

Phước thí sống lâu, sắc tốt, yên vui.

Sức mạnh và trí huệ.

Phước thí sẽ giàu sang, quan, quyền, vua, chúa, sự sung sướng thanh nhàn của cõi trời.

Phước thí là bến bờ núi báu, cù lao châu ngọc, lầu đài, xe cộ, của qui cõi sống no vui.

Phước thí là hạnh phúc cao thượng, trong sạch. Yên lặng, sáng suốt và chơn không.

Phước thí là chơn Phật, thân Thánh, đầu người, nhơn từ, quảng đại, lễ hiếu, thiện nền.

Cầu xin cho tín chủ phát lòng không trên, Chánh đẳng Chánh giác thêm lên.

Trời thần kỉnh phục, tiên thánh mến vì.

Chư Phật vừa lòng, gương lành đáng kể.

Phước huệ gồm thâu, ý nguyện toại cầu.

Phiền não đoạn tuyệt, ô nhiễm tránh xa,

Cúng thí là người Bồ-tát.

Cầu xin cho chư Bồ-tát, mau đến quả Như Lai.

Cúng dường nơi Tam bảo,

Cầu xin cho tín chủ mau đến quả Phật Pháp Tăng.

PHÁP HỌC SA DI II - DIỆT LÒNG HAM MUỐN - ĐỊNH - NIẾT BÀN

DIỆT LÒNG HAM MUỐN

1- Người nào trong lòng chứa đầy những sự ham muốn, làm các việc cho được danh vọng với đời, thì khác nào mùi hương trầm bay thoáng qua thơm phức, nhưng trong giây phút thì tan mất hết, những người mê muội ấy chỉ biết háo danh, chớ không hề ra sức tìm chơn đạo, dầu họ được toại kỳ sở nguyện đi nữa, họ cũng vẫn nghèo hèn về đạo đức, mà sau đây họ còn ân hận mãi.

2- Sắc đẹp với sang giàu, hai thứ này giống như miếng mật dính trên lưỡi dao, biết bao trẻ dại kê miệng nếm thử, không ngờ phải bị đứt lưỡi đớn đau!

3- Cỏ khô đem kê gần lửa, thì nó bắt cháy phừng lên, nếu người tu hành không tránh xa tình dục, thì sẽ phát cháy như cỏ khô kia.

4- Trong các thứ dục tình, duy có thói say mê sắc tốt là dữ hơn hết, không có dục tình nào thắng nó nổi, nhưng may thay có một mình nó mà thôi, nếu có một thứ dục tình nào khác cũng mạnh như nó, thì khó mà học đạo được.

5- Nếu trong lòng muốn tưởng quấy, hãy suy xét làm sao cho tấm lòng trở nên thanh tịnh như cũ; vậy thì hãy bắt từ trên đầu, suy nghĩ tới dưới chơn, rồi ở ngoài suy nghĩ vô trong thân thể: Này, trong mình con người chỉ chứa những chất ô uế: xương, thịt, máu, mủ... Suy nghĩ như vậy, bắt gớm nhờm, mà trừ được các tư tưởng quấy.

6- Người ở trong vòng ham muốn giống như kẻ điên cầm đuốc đi ngược gió, nếu không quăng đuốc phải cháy tay, sự vụng về của họ đã thấy rõ rang, bởi vậy khi người còn mang tam chướng là tham, sân, si và chưa thấy được đạo, thì in như kẻ điên cầm đuốc đi ngược gió, mà không buông để đến phải cháy tay.

7- Người đời bị các điều ham muốn làm chóa mắt, nên không biết đàng nào là đàng chánh, họ giống như nước bùn có lộn năm thứ màu, nếu có cái chi làn cho nước xao động, thì dòm xuống nước không thấy được hình. Cái trí cũng thế, nếu bị các điều ham muốn làm chộn rộn, thì nó trở nên nhơ bợn, không thấy được đạo. Trái lại, những người biết thú tội ,và ăn năn chừa cải, nếu gặp được chơn sư tức thì ngộ đạo, cũng như nước lọc hết chất bùn, trở nên trong sạch, dòm vô liền thấy hình rõ ràng.

8- Lại ví như nồi nước để trên lửa, sôi lên sùng sục, hơi bay ngun ngút, ai lại gần dòm vô, thế nào cũng không thấy bóng của mình, vậy nếu mang lấy tam chướng vào mình và phạm giới luật, thì khó bề thấy được đạo. Song, nếu ai biết lo rửa sạch tâm trần, dầu khi bỏ xác phàm rồi về cảnh Phật ở chốn nào. Và tới lúc đi đầu thai kiếp sau, sự học thức thế nào đi nữa, chung cuộc cũng thấy rõ đường đạo.

9. Những kẻ phải kinh sợ vì quá trìu mến gia đình, hoặc mê của tiền gia thế, thì giống như người mắc chốn lao tù, bị xiềng, bị còng, vừa buồn rầu, vừa hãi hùng.

Ở trong khám còn mong ra được, chớ quá trìu mến gia đình, thì sự lo sợ khác nào vào hang cọp, kẻ mê muội vì tình thương nặng quá và không đề phòng, thì có thể nào dứt được sự khổ não!

10. Ham muốn quá phải chịu đau đớn, có đau đớn tất phải lo sợ, hễ hết ham muốn thì hết đau đớn, hết đau đớn thì hết lo sợ.

11. Người học đạo giống như miếng cây trôi ra vàm sông, nếu miếng cây ấy trôi giõi theo dòng nước, không bị tấp vào bờ, không ai vớt lên, không phải vị hung thần hay kiết thần nào làm cho trở lại, không ở lình bình một chỗ, không hư không mục, tất nhiên chảy ra biển cả. Khi con người nhập đạo rồi, không còn bị các điều ham muốn làm cho lầm lạc, không để cho các tình dục làm chủ, giữ lòng thanh tịnh và ráng sức làm lành thì đắc đạo vậy.

12. Đạo không có hình dạng rõ ràng, muốn biết nó ra sao chẳng có ích chi cả, nhưng lo trau giồi tâm trí thì quý lắm, ví như tấm kiến trau giồi sáng suốt, tức nhiên hình rọi thấy rõ ràng. Bởi vậy, ngày nào con người dứt được các điều ham muốn, lòng vẫn trống không tức thì cửa đạo mở rộng, con người bước vào đó rồi, thì nhớ hết mấy kiếp trước.

13. Kẻ mới học đạo, giống như một người chống cự với muôn ngàn kẻ nghịch, ví như người kia mặc y giáp, mang khí giới rồi ra trận, hoặc người ấy sợ mà trở lại liền, hoặc đi nửa đường trở lại, hoặc tử trận, hoặc thắng trận về xứ được người tôn trọng vinh vang. Bởi vậy, nếu ai bền chí giữ gìn tánh hạnh, hết sức ăn ở theo đường đạo đức, không để cho sự dốt nát mê muội làm lầm lạc, thì tránh được hết các tình dục và sẽ đắc đạo.

14. Người học hỏi trong đường đạo giống như sắt, người ta nấu đặng lọc cho sạch, nấu nhiều lần mới lấy ra hết sét và cặn cáu, chừng ấy mới có thể dùng làm nên nhiều đồ tốt... Bởi vậy, những người nhập đạo, lần hồi rửa sạch cái tâm, chẳng cho dính chút bợn nhơ nào, và cứ một lòng lo đạo đức, thì thế nào cũng đắc đạo. Bằng như họ lo rầu, làm cho hư hại tinh thần họ, mà rồi cái ảnh hưởng ấy nó làm cho họ xa đường đạo; hễ xa đường đạo thì họ phải lầm lỗi, và tội của họ làm chất chứa thêm hoài.

15. Khi con người chuyên lo đạo đức, xa lánh các tình dục, thì giống như xâu chuỗi treo trên không, mỗi ngày mỗi rút từng hột, cứ rút hoài thì xâu chuỗi phải hết.

Bởi vậy cho nên nếu ai phá tan sự vô minh mê muội, thì đắc đạo rất dễ dàng.

16. Một con bò chở nặng, đi ngang qua vũng lầy, hồi đi thì cực nhọc rên siết, nhưng qua đến bờ khô ráo nghỉ ngơi rồi, nó quên hết các sự mệt nhọc; người học đạo cũng thế, các tình dục làm cho người lo sợ, cũng như lo sợ vũng lầy, nhưng dầu cho người sợ sệt thế nào, nếu người bền chí dốc lòng, chuyên lo đạo đức, ắt người sẽ tránh khỏi các sự đau khổ của kiếp luân hồi.

17. Những nhà đạo sau khi thí phát rồi, thì bỏ hết của trần, ngày đi xin ăn, đêm ngủ dưới cội cây, chỉ dùng một bữa cơm ngọ mà thôi! Tại sao thế? Là bởi vì con người thường bị những sự vui sướng áng mất, giục làm các việc lỗi lầm.

18. Phật xưa có dạy rằng: Các ngươi đừng quá tin ở tấm lòng của các ngươi, các ngươi hãy ráng giữ mình, đừng để say đắm về hình thức, vì hễ say đắm về hình thức thì phải chịu đau khổ, ngày nào được chứng quả La Hán rồi, chừng ấy mới nên tin ở lòng mình.

19. Lìa cha mẹ, bỏ nhà cửa đặng nhập đạo, một lòng quyết chí học hỏi cho rõ chơn tâm, bổn tánh, và hiểu thấu phép vô vi của Phật, tức là thành một vị Tu Đà Huờn.

Trì chí ăn ở theo 250 giới luật nghi, đừng bỏ qua một giới nào, ráng hết sức cho thâm nhập Tứ diệu đề và rửa lòng trong sạch là thành một vị A La Hán.

20. Khi những vị đã dứt hết sự dục vọng, không thọ lãnh cái chi nữa, không tìm kiếm cái chi nữa, không bị đạo ràng buộc nữa, không bị việc trở ngại nữa, không còn tư tưởng nữa, không còn hành động nữa, không còn tham thiền nữa, không tỏ ra bề ngoài cái chi nữa, mấy vị ấy lên tới bậc toàn giác tuyệt đối, đó tức là đạo.

ĐỊNH

40 ĐỀ MỤC THIỀN ĐỊNH

Chia ra làm 7 phần:

I. Mười đề trước mặt

II. Mười đề tử thi

III. Mười đề niệm niệm

IV. Bốn đề vô lượng tâm

V. Bốn đề vô sắc

VI. Một đề bất động

VII. Một đề tưởng

I. Mười đề trước mặt

1. Dùng đất làm đề mục

2. Dùng nước làm đề mục

3. Dùng gió làm đề mục

4. Dùng lửa làm đề mục

5. Dùng vật có sắc xanh làm đề mục

6. Dùng vật có sắc vàng làm đề mục

7. Dùng vật có sắc đỏ làm đề mục

8. Dùng vật có sắc trắng làm đề mục

9. Dùng hư không làm đề mục

10. Dùng ánh sáng làm đề mục.

II. Mười đề tử thi

1. Tử thi sình nổi lên

2. Tử thi sình có sắc xanh

3. Tử thi sình có mủ chảy

4. Tử thi đã bị người chặt đứt nửa thân mình

5. Tử thi đã bị thú ăn có dấu nhiều chỗ

6. Tử thi đã bị người cắt đứt rời ra từng đoạn

7. Tử thi đã bị người bằm nhiều chỗ

8. Tử thi đã bị phạm khí giới máu chảy nhiều chỗ

9. Tử thi đã bị giòi đục đủ cả cửu khiếu

10. Tử thi chỉ còn những xương rời ra.

III. Mười đề niệm niệm

1. Tưởng nhớ luôn luôn đến đức của Phật

2. Tưởng nhớ luôn luôn đến đức của Pháp

3. Tưởng nhớ luôn luôn đến đức của Tăng

4. Tưởng nhớ luôn luôn đến đức của giới

5. Tưởng nhớ luôn luôn đến đức của bố thí

6. Tưởng nhớ luôn luôn đến đức của chư Thiên và đức tin của mình

7. Tưởng nhớ luôn luôn đến sự chết

8. Tưởng nhớ luôn luôn theo thân thể

9. Tưởng nhớ luôn luôn đến hơi thở ra và thở vô

10. Tưởng nhớ luôn luôn đến Niết-bàn, là nơi tịch tịnh dứt khỏi các sự thống khổ.

IV. Bốn đề vô lượng tâm

1. Rải tâm đại Từ đến tất cả chúng sanh

2. Rải tâm đại Bi đến tất cả chúng sanh

3. Rải tâm đại Hỷ đến tất cả chúng sanh

4. Rải tâm đại Xả đến tất cả chúng sanh.

V. Bốn đề vô sắc

1. Lấy hư không, không ranh mé làm cảnh giới

2. Lấy thức, không ngăn mé làm cảnh giới

3. Lấy cái chi dầu nhỏ nhen cũng không có, làm cảnh giới

4. Lấy phi phi tưởng làm cảnh giới.

VI. Một đề bất động

Chăm chỉ suy xét tứ đại trong thân thể.

VII. Một đề tưởng

Tưởng vật thực mình dùng là không sạch.

30 ĐỀ MỤC ĐEM ĐẾN NHẬP ĐỊNH

10 đề trước mặt

10 đề tử thi

1 đề thân thể

4 đề vô lượng tâm

1 đề hơi thở

1 đề vô sắc.

11 ĐỀ MỤC CÓ THẮNG LỰC ĐEM TÂM TỪ SƠ ĐỊNH TỚI NGŨ ĐỊNH

10 đề trước mặt + 1 đề hơi thở.

11 ĐỀ MỤC CÓ THẮNG LỰC ĐEM TÂM ĐẾN SƠ ĐỊNH

10 đề tử thi + 1 đề niệm theo thân thể.

3 ĐỀ MỤC CÓ THẮNG LỰC ĐEM TỪ SƠ ĐỊNH TỚI TỨ ĐỊNH

1 đề Từ + 1 đề Bi + 1 đề Hỷ.

5 ĐỀ MỤC ĐEM TỪ TÂM TỨ ĐỊNH ĐẾN NGŨ ĐỊNH

4 đề vô sắc (thiền vô sắc)

1 đề đại Xả (thiền hữu sắc).

5 LỚP NHẬP ĐỊNH

1. Tầm sát, hỷ, lạc, tịnh, định

2. Hỷ, lạc, tịnh, định

3. Lạc, tịnh, định

4. Tịnh, định

5. Định.

Phép nhập định bực trên, phải qua khỏi bực dưới “tầm sát”.

a) Cũng như hành phép “đại Xả” phải qua khỏi duy hỷ của đại Từ

b) Muốn hành thiền vô sắc, phải qua khỏi 9 đề trước mặt (trừ đề “hư không”)

c) 3 đề vô sắc, phải qua khỏi đề “hư không”.

10 ĐỀ TRƯỚC MẶT NÊN NIỆM THÊM

(Khi đã niệm được 40 đề rồi).

Còn 30 đề kia không nên niệm thêm.

22 ĐỀ MỤC DÙNG LÀM CẢNH GIỚI

10 đề trước mặt - 10 đề tử thi - 1 đề hơi thở - 1 đề niệm theo thân thể.

12 ĐỀ MỤC PHẢI DÙNG PHÁP THỂ LÀM CẢNH GIỚI

8 đề niệm niệm (trừ đề hơi thở, đề niệm thân thể)

1 đề tưởng vật thực - 1 đề bất động - 1 đề thức không ngăn mé - 1 đề phi phi tưởng.

6 ĐỀ MỤC LÀM CẢNH GIỚI KHÔNG NHỨT ĐỊNH

4 đề vô lượng tâm - 1 đề hư không, không ngăn mé - 1 đề dầu cái chi nhỏ nhen cũng không có.

8 ĐỀ MỤC HÀNH TỪ TRƯỚC XAO ĐỘNG ĐẾN YÊN TỊNH

1 đề tử thi sình có mủ

1 đề tử thi phạm khí giới

1 đề tử thi có vòi

1 đề niệm hơi thở

1 đề nước

1 đề lửa

1 đề gió

1 đề sáng.

12 ĐỀ MỤC KHÔNG THỂ HÀNH Ở CÕI DỤC THIÊN

10 đề tử thi - 1 đề tưởng vật thực - 1 đề niệm theo thân thể.

13 ĐỀ MỤC KHÔNG THỂ DÙNG HÀNH Ở CÕI PHẠM THIÊN

10 đề tử thi - 1 đề niệm theo thân thể - 1 đề tưởng vật thực - 1 đề niệm theo hơi thơ

19 ĐỀ MỤC PHẢI HÀNH BẰNG CÁCH XEM TRƯỚC MẶT

9. Đề trước mặt (trừ đề gió)

10. Đề tử thi

1 đề hơi thở: phải hành theo hơi thở ra vô

1 đề gió: phải hành theo sự xem gió thổi bên ngoài

1 đại Xả và 4 đề vô Sắc, thì bậc sơ cơ không nên hành

9 đề trước mặt (trừ 1 đề hư không) là duyên

sanh 4 đề vô sắc

10 đề trước mặt là duyên sanh ngũ thông

3 đề: Từ + Bi + Hỷ: là duyên sanh đề đại Xả

3 đề vô sắc bậc dưới, là duyên sanh đề vô sắc bậc trên

1 đề phi phi tưởng là duyên sanh của diệt tưởng định

40 đề mục thiền định, là duyên sanh các bậc thánh nhân hiện kiếp, tức là sanh trí huệ

10 đề tử thi và một niệm theo thân thể: hiệp theo tính ái tình

4 đề vô lượng tâm + 4 đề sanh, vàng, đỏ, trắng hiệp theo tính sân

Đề niệm hơi thở, hiệp theo tính si mê và tính tầm

6 đề niệm niệm: Phật + Pháp + Tăng + giới + bố thí + đức tin đạo hạnh chư Thiên: hiệp theo tính tinh tấn

4 đề mục: chết + Niết bàn + bất động + vật thực: hiệp theo tính giác

10 đề mục còn lại: đất, nước, lửa, gió, hư không, ánh sáng, và 4 đề vô sắc: hiệp theo đủ các tính con người

Những người có tính tầm, phải hành để trước mặt vòng tròn nhỏ

Những người có tính si mê, phải hành để trước mặt vòng tròn lớn.

11 PHƯƠNG PHÁP QUÁN XÉT TỬ THI:

1. Đây là tử thi trắng hoặc đen

2. Đây là thi hài của người ấu niên hoặc trung hay lão

3. Đây là phần đầu hoặc chơn

4. Ta đứng trong phần này, tử thi ở phía này

5. Tay ở phía này, chơn ở phía này

6. Phân biệt phía dưới bàn chơn, trên đầu da tóc

7. Phân biệt cho biết trong mình có 180 khớp xương

8. Phân biệt cho biết khoảng trong tay chơn và bụng

9. Phân biệt cho biết các khiếu của tử thi, hoặc nơi cao hay thấp

10. Phân biệt cho biết chỗ cao của tử thi, hoặc nơi thấp hay cao

11. Hoặc đem trí huệ quán xét khắp cả tử thi, cho đều đủ, nếu chỗ nào phát sanh ra rõ rệt, phải ghi nhớ chỗ ấy.

8 SỰ CHẾT CỦA ĐỀ NIỆM NIỆM

1. Phải nhớ sự chết rõ rệt, như kẻ nghịch cầm dao đưa ngang cổ

2. Phải nhớ vạn vật trong thế giới đều phải tiêu hoại không sao tránh khỏi

3. Phải nhớ đến sự chết của mình, và so sánh sự chết của người

4. Phải nhớ đến thân thể này, hằng bị nhiều tai hại, như là 80 thứ giòi

5. Phải nhớ tuổi thọ không lâu, bởi sự sống chỉ nhờ hơi thở ra vô

6. Phải nhớ sự sống không chừng, không nhứt định

7. Phải nhớ sự sống của chúng sanh chỉ trên dưới 100 tuổi là cùng

8. Phải nhớ sự sống ngắn ngủi, trong chốc lát không chừng.

10 PHƯƠNG PHÁP HỌC NẰM LÒNG NƠI VỊ THIỀN SƯ

1. Phải ghi nhớ theo thứ tự mỗi thể

2. Phải ghi nhớ không nên đọc mau lắm

3. Phải ghi nhớ không nên đọc chậm lắm

4. Khi tâm bỏ đề mục, tìm hoàn cảnh khác, phải kiềm chế đừng để tâm xao lãng

5. Phải ghi nhớ bỏ sự niệm nơi tóc lông răng móng, chỉ phải nhớ đến sự nhơ nhớp, nhơ nhớp thôi

6. Phải ghi nhớ theo thứ tự của mỗi thể, nếu thể nào phát sanh rõ rệt, thì bỏ ra ghi nhớ thể khác

7. Phải biết thể nào đem đến sự nhập định, là phải biết 32 thể, đều có thắng lực đem tâm hành giả đến bậc nhập định được cả

8. Phải thông hiểu tâm kinh, mà đức Phật đã giải rằng: phải ghi nhớ luôn đến 3 ấn chứng: thiền định, tinh tấn và tâm xả

9. Phải thông hiểu kinh Sitiha, mà đức Phật giải thầy Tỳ kheo có đủ 6 phép, nên tu hành, cho thấy rõ niết-bàn

10. Phải thông hiểu kinh Satta, mà đức Phật giải phải hành theo 7 pháp Bồ đề, trong khi tâm giải đãi.

10 CÁI THỂ CỦA ĐỀ MỤC THIỀN ĐỊNH

1. Phải biết thể cách giải về số của đề mục

2. Phải biết đề mục có thắng lực đến gần nhập định và đề mục đem đền nhập định

3. Phải biết những phần của đề mục

4. Phải biết cách hành bỏ bực dưới lên bực trên

5. Phải biết đề mục nên niệm thêm, và đề mục không nên niệm thêm

6. Phải biết cảnh giới của đề mục

7. Phải biết cõi của đề mục

8. Phải biết cách tham thiền của đề mục

9. Phải biết duyên sanh của đề mục

10. Phải biết đề mục hạp với tánh nết của hành giả.

5 PHÉP VỀ CHỖ Ở CHO HẠP CHÁNH ĐỊNH

1. Phải xa xóm từ một đến hai ngàn thước

2. Ban ngày không lẫn lộn người thế, ban đêm phải thanh vắn không nghe tiếng người

3. Không thú dữ và muỗi mòng nhiều

4. Dễ bề tìm bốn món vật dụng

5. Có bậc tri thức tiện cho mình học hỏi.

18 CẢNH KHÔNG THUẬN VỚI PHÉP CHÁNH ĐỊNH

1. Chỗ ở rộng lớn

2. Chỗ ở mới tạo lập

3. Chỗ ở hư sập

4. Chỗ ở gần đường sá

5. Chỗ ở có ao nước

6. Chỗ ở có nhiều lê hoát

7. Chỗ ở có nhiều bông hoa

8. Chỗ ở có nhiều trái cây

9. Chỗ ở có nhiều người tựu hội

10. Chỗ ở trong thị tứ

11. Chỗ ở gần đường núi

12. Chỗ ở gần ruộng rẫy

13. Chỗ ở có người nghịch

14. Chỗ ở gần bến thuyền

15. Chỗ ở giáp biên giới, xa kinh đô

16. Chỗ ở gần trong ranh hai nước

17. Chỗ ở hay có nhiều điều lo sợ

18. Chỗ ở không có bậc thiện tri thức.

7 ĐIỀU NGHỊCH VỚI ẤN CHỨNG THAM THIỀN

1. Chỗ trụ bất hạp ý

2. Chỗ trụ quá xa xóm hoặc quá gần

3. Những lời nói vô ích

4. Những người ham ăn hay nói

5. Vật thực ăn vào không hạp thân tâm

6. Thời khí nóng quá, thân không an trụ

7. Oai nghi không điều khó cho tâm an trụ.

10 PHÉP HỘ ĐẠO

1. Dọn mình cho thong thả, nhứt là cạo tóc, cắt móng

2. Làm cho ngũ căn đồng nhau, riêng niệm căn phải có lực lượng để quan sát

3. Phải thông thuộc phương pháp niệm và gìn giữ sự thấy biết

4. Phải tùy tiện mà phấn chí, nghĩa là dùng trí huệ mà tinh tấn, hỷ, lạc, tham cứu phép vô thường, khổ não, vô ngã trong khi giải đãi.

5. Phải tùy tiện khai hóa tâm, tức là phải dùng an định xả, tham cứu cho thấy rõ vô thường, khổ não, vô ngã trong khi phóng túng

6. Tùy tiện răn he tâm, là phải suy xét đến pháp động tâm, hoặc đến đức của Phật

7. Tùy tiện để tâm tự do tự tại, là không cần phải phấn chí khai hóa tâm và răn he tâm, khi tâm đã hành đúng phép chỉ quán

8. Lánh xa kẻ không có lòng an tịnh, là kẻ hay bị thế lực buộc ràng

9. Thân cận cùng người có tâm an định

10. Phẩm hạnh như người đã có tâm nhập định.

4 PHẦN CHÁNH NIỆM

1. Nhớ chắc 32 tướng trong thân thể là vô thường, khổ não, vô ngã

2. Ghi nhớ rằng cái thọ vui hay cái thọ khổ là vô thường, khổ não, vô ngã

3. Ghi nhớ những sự lành hay sự ác là vô thường, khổ não, vô ngã

4. Ghi nhớ rằng các danh pháp và sắc pháp trong thế gian đều là vô thường, khổ não, vô ngã.

3 ĐỀ MỤC THIỀN ĐỊNH THƯỜNG

1. Niệm tâm đại từ

2. Niệm sự tử

3. Niệm sự nhơ nhớp ( tử thi).

5 PHÉP ĐỀ MỤC SỐ TỨC QUAN

1. Phải học cho hiểu thông đều đủ cách niệm hơi thở

2. Phải tìm học hỏi nơi thiền sư, cho rõ rệt chỗ hoài nghi

3. Phải ghi nhớ giữ gìn ấn chứng đã phát sanh ra

4. Phải học cho biết sự nhận định được, do đề mục này

5. Phải học cho biết rõ, cái thể tướng của đề mục này.

8 PHÉP GHI NHỚ

1. Cách đếm hơi thở ra hít vô

2. Cách khắng khít chú ý theo hơi gió thở ra vô

3. Nơi mà hơi gió thổi ra vô tiếp xúc nhằm

4. Cách ghi nhớ chân chánh nhập định

5. Cách ghi nhớ về cái tướng vô thường

6. Cách dứt bỏ luân hồi nương theo 4 đạo

7. Cách trong sạch xa lánh phiền não nương theo 4 quả

8. Trí huệ suy xét thấy rõ thể tướng vỏ trụ.

3 CHẶNG HƠI THỞ

Mũi + tim + rúng.

5 CÁCH VUI THIỀN ĐỊNH

1. Như thấy trời chớp hoặc ánh sáng

2. Như sóng tạt vào mình

3. Da mặt đều nổi ốc

4. Rất khoái lạc trong tâm, thân có thể bay bổng

5. Mát lạnh và nhẹ nhàng cả thân tâm.

6 PHÉP TRỪ THAM DỤC

1. Phải học phép thiền định về vật bất tịnh

2. Phải chăm chỉ tưởng nhớ vật bất tịnh

3. Phải thu hút lục căn

4. Phải tiết chế sự ăn uống

5. Phải năng thân cận cùng bậc thiện tri thức

6. Phải hằng nói lời dịu ngọt.

6 PHÉP TRỪ PHÓNG TÂM

1. Phải thông hiểu kinh luật cho nhiều

2. Phải siêng năng học hỏi điều phải lẽ quấy

3. Phải thuộc nằm lòng giới luật

4. Phải xu hướng theo bậc lão thành

5. Phải năng thân cận cùng bậc thiện tri thức

6. Phải hằng nói lời dịu ngọt.

8 PHÉP BẤT TỊNH

1. Lòng sân hận

2. Không tiết lộ

3. Ngang ngạnh

4. Mê tín

5. Gian xảo

6. Tật đố

7. Kiêu căng

8. Chìu lòng theo kẻ ác.

5 NGUYÊN NHÂN TAN RÃ

1. Ta không thể tránh sự tàn phá của cái già

2. Ta không thể tránh khỏi sự bịnh được

3. Ta không thể tránh khỏi sự chết được

4. Ta sẽ phải chia lìa nhân vật triếu mến

5. Ta chỉ có cái nghiệp là của cải, nó là người cho ta quả lành hoặc dữ.

7 CÁI CHẾT SO SÁNH

1. So sánh sự chết của đại hoàng đế

2. So sánh sự chết của đại phú gia

3. So sánh sự chết của người có sức lực nhiều

4. So sánh sự chết của bậc đại tài biến hóa

5. So sánh sự chết của bậc đại trí huệ

6. So sánh sự nhập diệt của bậc độc giác

7. So sánh sự nhập Niết bàn của Phật.

5 ĐIỀU NHƠ NHỚP

1. Nhơ nhớp vì màu sắc

2. Nhơ nhớp vì hình trạng

3. Nhơ nhớp vì mùi vị

4. Nhơ nhớp vì chỗ nương dựa

5. Nhơ nhớp vì không khí chỗ ở.

9 ĐIỀU NHƠ NHỚP

1. Sự hờn giận

2. Sự bạc ơn

3. Sự ganh gổ

4. Sự bỏn sẻn

5. Làm bộ làm tịch

6. Sự khoe khoan

7. Nói vọng ngữ

8. Tà kiến

9. Sự ưa thích những điều xấu xa tội lỗi.

10 PHÉP CHƯỚNG NGẠI

1. Sự ưa thích theo trong Dục giới

2. Sự ưa thích trong cảnh trời Sắc giới

3. Sự ưa thích trong cảnh trời Vô sắc giới

4. Ngã mạn

5. Tâm xao lãng

6. Sự tối tăm che lấp pháp Tứ diệu đế

7. Sự chấp rằng ngũ uẩn là thường tồn

8. Sự nghi ngờ về nhơn quả của thiện ác

9. Sự chấp theo pháp mà mình đã quen hành

10. Sự uất ức.

10 ĐIỀU QUYẾN LUYẾN

1. Quyến luyến vì săn sóc chỗ ở

2. Quyến luyến vì buộc ràng quyến thuộc

3. Quyến luyến vì thọ lợi

4. Quyến luyến vì sự học

5. Quyến luyến vì công việc

6. Quyến luyến vì đi đường xa

7. Quyến luyến vì nuôi bịnh người thân

8. Quyến luyến vì lo chữa bịnh cho mình

9. Quyến luyến vì lo học tam tạng

10. Quyến luyến vì lo giữ gìn pháp thần thông.

2 CÁCH DỨT BỎ SỰ QUYẾN LUYẾN

1. Phải dứt bỏ ngay

2. Phải làm cho xong.

6 PHÉP THỎA MÃN

1. Thỏa mãn trong sự không gian tham

2. Thỏa mãn trong sự không sân hận

3. Thỏa mãn trong sự không si mê

4. Thỏa mãn trong sự xuất gia

5. Thỏa mãn trong sự thanh vắng

6. Thỏa mãn trong sự giải thoát.

6 TÍNH NẾT

1. Tính ái tình

2. Tính sân hận

3. Tính si mê

4. Tính tin

5. Tính giác

6. Tính tầm

5 NGUYÊN NHƠN CỦA SỰ CHE LẤP

1. Thấy sắc mặt mà cho là xinh đẹp

2. Thấy cảnh nghịch mà cố giận

3. Sự không vui, lười biếng, không thay đổi oai nghi, mê ăn và giải đãi

4. Lòng không yên tịnh

5. Sự không xem xét và ghi vào lòng.

11 PHÉP TẤN HÓA KHÔNG ĐƯỢC

1. Không biết được các nguyên hành trong xác thân

2. Không biết tư cách của người và kẻ ác

3. Không ngăn che các tầm thức ác

4. Không giữ chặt lục căn

5. Không thạo cách truyền pháp, giảng kinh

6. Không hay gần gũi với bậc rõ thông kinh luật

7. Không biết rõ nhân và quả của các pháp cao thượng

8. Không biết rõ vô thường, khổ não, vô ngã của ngũ uẩn

9. Không biết rõ Bát chánh đạo

10. Không biết cách thọ lãnh bốn món vật dụng

11. Không biết tôn kính những bậc Tỳ kheo trưởng thượng.

7 PHẦN BỒ ĐỀ

1. Phân biệt sự lành với sự dữ

2. Tinh tấn mà lướt lên

3. An lạc trong vòng đạo đức

4. Thắng phục tâm ý mình đặng làm lành

5. Nhớ tưởng đạo lý

6. Nhứt tâm đại định

7. Vui chịu với mọi cảnh ngộ.

7 TÌNH VỌNG

Buồn, Vui, Mừng, Giận, Thương, Ghét, Muốn.

TỨ ĐẠI TRONG THÂN

20 PHẦN ĐẤT TRONG THÂN:

1. Tóc - 2. Lông - 3. Răng - 4. Móng - 5. Da - 6. Thịt - 7. Gân - 8. Xương -

9. Tủy - 10. Thận - 11. Tim - 12. Gan - 13. Màng bao ruột - 14. Dạ dày - 15. Phổi - 16. Ruột già - 17. Ruột non - 18. Đồ ăn mới - 19. Phẩn - 20. Óc.

12 PHẦN NƯỚC TRONG THÂN

1-Mật - 2. Đàm 3. Mủ - 4. Máu - 5. Mồ hôi - 6. Mỡ - 7. Nước mắt - 8. Trỉn da - 9. Nước miếng - 10. Nước mũi - 11. Nhớt - 12. Nước tiểu.

6 PHẦN GIÓ TRONG THÂN

1. Gió quạt từ chơn lên tới óc

2. Gió quạt từ óc tới bàn chơn

3. Gió hằng có trong mình, ở ngoài ruột

4. Gió quạt trong gân

5. Gió ở cùng trong thịt từ chưn đến đầu

6. Hơi thở ra và thở vô.

4 PHẦN LỬA TRONG MÌNH

1. Lửa làm cho thân người ấm áp

2. Lửa làm cho thân người gầy ốm

3. Lửa làm cho thân người nóng nảy

4. Lửa làm cho vật thực tiêu tan.

24 CĂN NGUYÊN CỦA XÁC THÂN

1. Thị giác, đầu dây thần kinh nơi mắt, như đầu con chí

2. Thính giác, đầu dây thần kinh nơi tai, như chiếc cà rá

3. Khứu giác, đầu dây thần kinh nơi mũi, như móng con dê

4. Vị giác, đầu dây thần kinh nơi cái lưỡi, như cái bông

5. Sắc trần chạm vào thị giác và xúc giác

6. Thinh trần chạm vào thính giác

7. Hương trần chạm vào khứu giác

8. Vị trần chạm vào vị giác

9. Những đầu dây ở khắp mặt da, gọi là xúc giác

10. Nữ căn là căn nguyên phân biệt nữ nam

11. Nam căn là căn nguyên phân biệt nam nữ

12. Sự sống là sức bảo thủ cái thân tứ đại

13. Máu hằng giữ trái tim, cho khỏi khô héo

14. Tướng làm cho lời nói phát khởi

15. Tướng cử động của thân thể

16. Cửu khiếu, tướng trống rỗng trong thân, kêu là lỗ

17. Tướng nhẹ nhàng và nhậm lẹ của thân thể

18. Tướng mềm mại của thân thể

19. Tướng hữu dụng của thân thể

20. Tướng thay đổi của thân thể, lúc mới đầu thai

21. Tướng thay đổi của thân thể, từ sanh đến lớn

22. Tướng thay đổi của thân thể, từ lớn đến chết

23. Tướng vô thường của thân thể, trong ba thời kỳ

24. Cái tinh ba của vật thực, để dưỡng thân thể.

22 CĂN LÀNH

Nhãn căn - 2. Nhĩ căn - 3. Tỷ căn - 4. Thiệt căn - 5. Thân căn - 6. Ý căn - 7. Nam căn - 8. Nữ căn - 9. Mạng căn - 10. Khổ căn - 11. Lạc căn - 12. Ưu căn - 13. Hỷ căn - 14. Xả căn - 15. Tinh tấn căn - 16. Tín căn - 17. Niệm căn - 18. Định căn - 19. Huệ căn - 20. Vị trí đương tri căn - 21. Dỉ tri căn - 22. Cu tri căn.

32 THỂ TƯỚNG (CHIA RA 6 PHẦN)

1. Tóc, lông, răng, móng da

2. Thịt, thần kinh, xương, tủy, tinh ba

3. Tim, gan, màng bao ruột, bao tử, phổi

4. Ruột già, ruột non, vật thực mới, vật thực cũ, tủy trong óc

5. Nước mắt, mỡ lỏng, nước miếng, nước mũi, nhớt, nước tiểu

6. Mật đàm, mủ, máu, mỡ đặc, mồ hôi.

NIẾT BÀN

1. Thân hình của đấng trọn lành hãy còn, đã tách khỏi thế lực, dắt tới sự biến thành, thân hình ấy còn bao lâu, thần thánh và thế nhơn sẽ còn thấy người, nếu thân hình đó vỡ tan, nếu đời sống của người đã đến kỳ cùng tận, dầu cho thần thánh, dầu thế nhơn cũng sẽ không còn thấy đặng người nữa.

2. Kẻ nào không mê đắm về cơ thể hữu hình, không là gì nữa hết, sẽ không thể nào còn mắc phải những sự khổ đau. Người đã bỏ mọi danh từ, người không còn trú vào một nơi nào nữa, người đã hủy sự ham muốn, xu hướng về một cơ thể hữu hình; vì bởi không điều lo lắng, không sự ước ao, nên thần thánh và thế nhơn muốn tìm người, dầu dưới thế này, dầu trong cõi khác, dầu trong những cõi trời, dầu trong mọi chỗ, cũng không thể đặng gặp người.

3. Không có lời nào đặng chỉ kẻ đã trở về quê cũ của người, bởi vì đối với người, mọi vật đều bị hủy bỏ, cả thảy những biến thái của lời nói cũng bị hủy bỏ.

4. Hãy tôn kính những bậc đại quang minh đã vượt khỏi tất cả những điều trở ngại, và đã hoàn toàn tắt mất, những bực không thể lường được.

5. Những bực hiền minh ra khỏi đời.

6. Những bực hiền minh không làm gì hại cho sinh vật nào hết, luôn luôn kiềm chế xác thân nên đến được cõi yên lặng, nơi đó không có sự buồn rầu nào động tới người nữa được.

7. Tống được sự nhơ nhớp, người sẽ đến được trong cõi huyền diệu, trong cõi tuyệt hảo, khi gỡ hết nết xấu.

8. Chẳng phải dùng những cách chở chuyên, như voi hay lừa, ngựa mà người sẽ đến được, cõi không ai đạp chơn tới là Niết-bàn. Người đến cõi đó với cái tôi đã quy phục được.

9. Có một chỗ kia, nơi đó không có đất, cũng không có nước, cũng không có lửa, cũng không có khí thở, cũng không có sự mênh mông của thời gian, cũng không có sự bao la của ý thức, cũng không cõi này, cũng không cõi kia, cũng không cõi nào trong hai cõi, mặt trăng và mặt trời, chỗ đó không đi tới, cũng không bỏ đi, cũng không đứng, cũng không biến thành, cũng không mất, không căn bổn, không kế tiếp, không chi điểm là đó. Đó là sự hết đau khổ.

10. Ta sẽ đi đến cái vô động, cái không lay chuyển, cái đó không thứ gì giống được hết.

11. Đó là chơn phước cực đại.

12. Làm thế nào mà ở đó có thể có chơn phước được ở chỗ không còn cảm giác? Chính không có cảm giác, điều này là đúng chơn phước đó.

13. Cũng giống như lửa, nháng ra dưới nhát búa của người thợ rèn, rồi kế đó lần lần trở lại sự yên lặng, và khi đó người ta không thể nói được nó đi đâu.

Cũng như thế, chỗ cư trú của mấy bậc đã thật giải thoát, đã qua được con sông vui thích của giác quan và đến được cảnh chơn phước không thay đổi.

14. Chánh định của tuệ giác là chỗ ở của bậc đã siêu thăng vậy.

PHÁP HỌC SA DI III - HUỆ

PHÁP VI TẾ

I- TAM TỤ, LỤC HÒA

TAM TỤ:

1. Dứt các điều ác

2. Làm các điều lành

3. Từ bi tế độ tất cả chúng sanh

LỤC HÒA:

1. Thân cùng nhau hòa hiệp ở chung

2. Miệng không tranh đua cãi lẫy

3. Ý ưa nhau không trái nghịch

4. Giới luật đồng cùng nhau tu theo

5. Kiến thức riêng chỉ giải cho nhau

6. Tứ sự chia đồng với nhau.

II- NĂM PHÉP CÁI

Ham muốn - 2. Sân hận - 3. Hôn trầm - 4. Phóng tâm - 5. Hoài nghi.

NĂM NGUYÊN NHÂN PHÁP CÁI

1. Thấy sắc mà cho là đẹp, là nhân sanh tham dục

2. Thấy cảnh nghịch mà cố giận là nhân sanh oán hận

3. Không vui lười biếng, không thay đổi oai nghi, ham ăn và giải đãi, là nhân sanh hôn trầm

4. Lòng không an tịnh, là nhân sanh phóng tâm

5. Sự không xem xét và ghi nhớ là nhân sanh hoài nghi.

SÁU PHÉP TRỪ THAM DỤC

1. Phải học phép thiền định về vật bất tịnh

2. Phải chăm chỉ tưởng nhớ vật bất tịnh

3. Phải thu thúc lục căn

4. Phải tiết chế sự ăn uống

5. Phải năng thân cận cùng các bậc thiện tri thức

6. Phải hằng nói lời dịu ngọt.

SÁU PHÉP TRỪ OÁN HẬN

1. Phải học đề mục về lòng bác ái

2. Phải cố gắng niệm đề mục thiền định bác ái

3. Phải xem xét cho tỏ rõ, tất cả chúng sanh đều có nghiệp báo riêng

4. Phải tinh tấn xem xét cho thường mấy điều kể trên

5. Phải năng thân cận cùng bậc thiện tri thức

6. Phải hằng nói lời dịu ngọt.

SÁU PHÉP TRỪ HÔN TRẦM

1. Phải ghi nhớ và xem xét sự ăn uống không cho quá độ

2. Phải thay đổi oai nghi cho được an vui

3. Phải ghi nhớ tìm xét chơn lý

4. Phải ở khoảng khoát

5. Phải năng thân cận cùng bậc thiện tri thức

6. Phải hằng nói lời dịu ngọt.

SÁU PHÉP TRỪ PHÓNG TÂM

1. Phải thông hiểu kinh luật cho nhiều

2. Phải siêng năng học hỏi điều phải lẽ quấy

3. Phải thuộc nằm lòng giới luật

4. Phải xu hướng theo bậc lão thành

5. Phải năng thân cận cùng bậc thiện tri thức

6. Phải hằng nói lời dịu ngọt.

SÁU PHÉP TRỪ HOÀI NGHI

1. Phải thông hiểu kinh luật cho nhiều

2. Phải năng học hỏi điều phải lẽ quấy

3. Phải thuộc nằm lòng giới luật

4. Phải có đức tin cho nhiều

5. Phải năng thân cận cùng bậc thiện tri thức

6. Phải hằng nói lời dịu ngọt.

III- CÁI ĐẮC CỦA PHẬT

8 CÁI GIÁC

1. Túc mạng minh - 2. Thiên nhãn minh - 3. Lậu tận minh - 4. Minh sát minh - 5. Thiên hiện minh - 6. Ý sanh thân minh - 7. Thiên nhĩ minh - 8. Tha tâm minh.

15 CÁI HÀNH

1. Giữ giới bổn trong sạch

2. Đóng chặt lục căn

3. Có độ lượng trong sự ăn uống

4. Có độ lượng trong sự ngủ (ngủ ít thức nhiều)

5. Có đức tin chơn chánh

6. Có sự niệm tưởng chơn chánh

7. Biết hổ ngươi các sự tội lỗi

8. Biết ghê sợ sự tội lỗi

9. Chuyên cần học hỏi cho thấy xa hiểu rộng

10. Thường hành theo phép tinh tấn, không cho tâm thối chuyển trong việc tu hành

11. Quán tưởng cho chín chắn để trí huệ hiểu biết tận nguồn gốc của mọi sự vật

12. Hành chín chắn cho đắc quả sơ thiền

13. Hành chín chắn cho đắc quả nhị thiền

14. Hành chín chắn cho đắc quả tam thiền

15. Hành chín chắn cho đắc quả tứ thiền.

IV-TỨ DIỆU ĐẾ

KHỔ ĐỀ: 8 KHỔ

Sanh khổ - 2. Lão khổ - 3. Bịnh khổ - 4. Tử khổ - 5. Thương yêu xa lìa khổ - 6. Thù ghét gặp gỡ khổ - 7. Cầu muốn chẳng đặng khổ - 8. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức thái quá khổ.

TẬP ĐỀ: 12 NHƠN DUYÊN TẬP

Vô minh tập - 2. Hành tập - 3. Thức tập - 4. Danh sắc tập - 5. Lục nhập tập - 6. Xúc tập - 7. Thọ tập - 8. Ái tập - 9. Thủ tập - 10. Hữu tập - 11. Sanh tập - 12. Tử tập.

DIỆT ĐỀ: 12 NHƠN DUYÊN DIỆT

1. Vô minh diệt - 2. Hành diệt - 3. Thức diệt - 4. Danh sắc diệt - 5. Lục nhập diệt - 6. Xúc diệt - 7. Thọ diệt - 8. Ái diệt - 9. Thủ diệt - 10. Hữu diệt - 11. Sanh diệt - 12. Tử diệt.

ĐẠO ĐỀ: BÁT CHÁNH ĐẠO

1. Chánh kiến đạo - 2. Chánh tư duy đạo - 3. Chánh ngữ đạo - 4. Chánh nghiệp đạo - 5. Chánh mạng đạo - 6. Chánh tinh tấn đạo - 7. Chánh niệm đạo - 8. Chánh định đạo.

37 PHẦN BỒ ĐỀ

TỨ NIỆM XỨ: 4 PHÉP NIỆM

1. Quán tưởng đến thân thì thân dứt (niệm thân)

2. Quán tưởng đến bịnh thì bịnh dứt (niệm bịnh)

3. Quán tưởng đến ý thì ý dứt (niệm ý)

4. Quán tưởng đến pháp thì pháp dứt (niệm pháp)

TỨ Ý ĐOẠN: 4 PHÉP ĐOẠN

1. Dứt thân rồi không nhớ nữa (đoạn thân)

2. Dứt bịnh rồi không nhớ nữa (đoạn bịnh)

3. Dứt ý rồi không nhớ nữa (đoạn ý)

4. Dứt pháp rồi không nhớ nữa (đoạn pháp)

TỨ THẦN TÚC: 4 PHÉP THẦN

1. Phép niệm làm cho mắt thấy xa (thiên nhãn)

2. Phép niệm làm cho tai nghe xa (thiên nhĩ)

3. Phép niệm làm cho biết tâm kẻ khác (tha tâm)

4. Phép niệm làm cho thân bay bổng lên không (thần túc)

NGŨ CĂN: 5 CĂN BỔN

1. Nhãn căn (tín căn)

2. Nhĩ căn (niệm căn)

3. Tỷ căn (tinh tấn căn)

4. Thiệt căn (trì giới căn)

5. Thân căn (thiền định căn)

NGŨ LỰC: 5 SỨC LỰC

1. Sức lực kiềm chế con mắt (tín lực)

2. Sức lực kiềm chế lỗ tai (niệm lực)

3. Sức lực kiềm chế lỗ mũi (tinh tấn lực)

4. Sức lực kiềm chế cái lưỡi (trì giới lực)

5. Sức lực kiềm chế cái thân (thiền định lực).

7 PHẦN BỒ ĐỀ: THẤT GIÁC Ý

1. Phân biệt sự lành với sự dữ

2. Tinh tấn mà lướt lên

3. An lạc trong vòng đạo đức

4. Thắng phục tâm ý mình đặng làm lành

5. Nhớ tưởng đạo lý

6. Nhứt tâm đại định

7. Vui chịu với mọi cảnh ngộ.

8 MÓN CHÁNH ĐẠO: BÁT CHÁNH ĐẠO

1. Thấy biết chơn chánh (chánh kiến đạo)

2. Suy gẫm chơn chánh (chánh tư duy đạo)

3. Nói lời chơn chánh (chánh ngữ đạo)

4. Làm việc chơn chánh (chánh nghiệp đạo)

5. Nuôi mạng chơn chánh (chánh mạng đạo)

6. Siêng cần chơn chánh (chánh tinh tấn đạo)

7. Niệm tưởng chơn chánh (chánh niệm đạo)

8. Định tâm chơn chánh (chánh định đạo).

TAM THẬP ĐỊA

THẬP ĐỊA THINH VĂN

1. Thọ tam quy địa - 2. Tín địa - 3. Tín pháp địa - 4. Nội phàm phu địa - 5. Học tín giới địa - 6. Nhập nhơn địa - 7. Nhập lưu địa - 8. Nhứt vãng lai địa - 9. Bất lai địa - 10. Vô sanh địa.

THẬP ĐỊA DUYÊN GIÁC

1. Khổ hạnh cụ túc địa

2. Tự giác thậm thâm nhập nhị nhơn duyên địa

3. Giác liễu tứ thánh đế địa

4. Thậm thâm lợi trí địa

5. Cửu thánh đạo địa

6. Giác liễu pháp giới, hư không giới, chúng sanh giới địa

7. Chứng tịch diệt địa

8. Lục thông địa

9. Triệt hòa mật địa

10. Tập khí tiệm bạt địa.

THẬP ĐỊA BỒ TÁT

1.Hoan hỷ địa - 2. Ly cấu địa - 3. Phát quang địa - 4. Diễm huệ địa - 5. Cực nan thắng địa - 6. Hiện tiền địa - 7. Viễn hạnh địa - 8. Bất động địa - 9. Thiện huệ địa - 10. Pháp vân địa.

BÁT CHÁNH ĐẠO

4 PHẦN CHÁNH KIẾN

1. Thấy chắc các sự khổ

2. Thấy chắc lòng tham ái là nhân sanh các sự khổ

3. Biết chắc cảnh Niết bàn là nơi dứt khổ

4. Biết chắc con đường Trung đạo dắt dẫn đến nơi diệt khổ.

3 PHẦN CHÁNH TƯ DUY

1. Suy xét không đành làm loài vật phải bị hại

2. Suy xét không đành làm cho loài vật phải đau đớn

3. Suy xét tránh khỏi ngũ dục, đặng tìm xuất gia giải thoát.

4 PHẦN CHÁNH NGỮ

1. Không nói dối

2. Không nói lời đâm thọc

3. Không nói lời hỗn ẩu ỷ thị

4. Không nói lời vô ích khoe khoang.

3 PHẦN CHÁNH NGHIỆP

1. Không làm nghiệp sát sanh

2. Không làm nghiệp trộm cắp

3. Không làm nghiệp tà dâm.

5 PHẦN CHÁNH MẠNG

1. Không nuôi loài vật để bán

2. Không buôn bán người (làm sự mai dong)

3. Không buôn bán rượu

4. Không bán thuốc độc

5. Không buôn bán khí giới.

4 PHẦN CHÁNH TINH TẤN

1. Ráng giữ không cho sự ác sắp khởi ra được

2. Ráng dứt sự ác đã có trong tâm

3. Ráng làm những sự lành mà mình chưa làm

4. Ráng làm những sự lành mà mình sẵn có cho được thêm lên.

4 PHẦN CHÁNH NIỆM

1. Nhớ nhắc 32 thể tướng trong thân thể là vô thường, khổ não, vô ngã

2. Ghi nhớ rằng cái thọ vui hay thọ khổ là vô thường, khổ não, vô ngã

3. Ghi nhớ những sự lành hay sự ác là vô thường, khổ não, vô ngã

4. Ghi nhớ rằng các danh pháp và sắc pháp trong thế gian đều là vô thường, khổ não, vô ngã.

4 PHẦN CHÁNH ĐỊNH

1. Sơ định: tầm sát, hỷ, lạc, tịnh, định

2. Nhị định: hỷ, lạc, tịnh, định

3. Tam định: lạc, tịnh, định

4. Tứ định: tịnh, định

(Ngũ định) định (đại định) Niết bàn.

TỨ DIỆU ĐẾ

1. Khổ đế: tám khổ

2. Tập đế: lòng thương muốn ái dục

3. Diệt đế: diệt lòng thương muốn ái dục

4. Đạo đế: tám chánh đạo.

13 KHỔ

1. Sanh khổ - 2. Lão khổ - 3. Bịnh khổ - 4. Chết khổ - 5. Sanh tử biệt ly khổ - 6. Thương tủi khổ - 7. Mệt nhọc khổ - 8. Tức giận khổ - 9. Nhớ tưởng khổ - 10. Ghét mà hiệp khổ - 11. Thương mà ly khổ - 12. Thất vọng khổ - 13. Chấp ngũ uẩn khổ.

3 PHẦN CỦA TẬP ĐẾ

1. Tâm ái dục trong cõi Dục

2. Tâm ái dục trong cõi Sắc

3. Tâm ái dục trong cõi Vô sắc.

3 LUÂN TRONG MỖI ĐẾ

1. Huệ thấy rõ diệu đế

2. Huệ thấy rõ sự trong diệu đế

3. Huệ thấy rõ sự trong diệu đế đã hành rồi

Luân trong bốn đế gọi là bánh xe pháp có 12 thể.

4 SỞ DỤNG

1. Công phu, thọ trì, niệm Phật, tham thiền

2. Quan sát cái tướng vô thường của vạn vật

3. Quan sát những sự hành động của thân, tâm

4. Tham cứu các giáo lý của chư Phật Thánh.

8 GIÓ NGHIỆP

1. Gió lợi - 2. Gió hại - 3. Gió khổ - 4. Gió vui - 5. Gió vinh - 6. Gió nhục - 7. Gió khen - 8. Gió chê.

16 TÙY PHIỀN NÃO

1. Tham - 2. Giận - 3. Uất ức - 4. Thù oán - 5. Quên ơn - 6. Tranh cao thấp - 7. Ganh gổ - 8. Bót rít - 9. Giấu lỗi - 10. Tặng mình - 11. Cang ngạnh - 12. Chê người, khen mình - 13. Ngã mạn - 14. Khinh người - 15. Mê sa - 16. Cẩu thả

3 PHÉP MINH SÁT

1. Vô thường - 2. Khổ não - 3. Vô ngã.

THẬP ÁC NƠI TAM NGHIỆP

1. Sát sanh

2. Trộm cắp Thân nghiệp

3. Tà dâm

4. Nói dối

5. Khoe khoang Khẩu nghiệp

6. Đâm thọc

7. Rủa chửi

8. Tham lam

9. Sân giận Ý nghiệp

10. Si mê

(Thập ác là không thập thiện)

Thập thiện là không thập ác

TAM NGHIỆP

1.Thân - 2. Khẩu - 3. Ý

10 TỘI NGŨ TRẦN

1. Ngũ trần ví như khúc xương bỏ rơi trên đất

2. Ngũ trần ví như miếng thịt thúi

3. Ngũ trần ví như cây đuốc rơm

4. Ngũ trần ví như lò lửa đang cháy

5. Ngũ trần ví như giấc mộng

6. Ngũ trần ví như vật mượn của người

7. Ngũ trần ví như trái cây có chất độc

8. Ngũ trần ví như dao với thớt

9. Ngũ trần ví như kiếm và lao

10. Ngũ trần ví như con rắn độc.

NGŨ TRẦN

Sắc - Thinh - Hương - Vị - Xúc.

18 GIỚI

Nhãn căn

Thấy thức

Sắc trần

Nhĩ căn

Nghe thức

Thinh trần

Tỷ căn

Ngửi thức

Hương trần

Thiệt căn

Nếm thức

Vị trần

Thân căn

Rờ thức

Xúc trần

Ý căn

Tưởng thức

Pháp trần

6 căn

6 thức

6 trần

DANH HIỆU PHẬT

1. Như Lai - 2. Ứng Cúng - 3. Chánh Biến Tri - 4. Minh Hạnh Túc - 5. Thiện Thệ - 6. Thế Gian Giải - 7. Vô Thượng Sĩ - 8. Điều Ngự Trượng Phu - 9. Thiên Nhơn Sư - 10. Phật - 11. Thế Tôn - 12. Pháp Vương - 13. Sĩ Trung Thắng - 14. Thiện Thượng Tôn.

3 TÁC Ý

1. Khi tính - 2. Khi làm - 3. Khi đã làm xong.

4 PHÉP TẾ ĐỘ

1. Phân phát của cải

2. Nói những lời làm cho người kính mến

3. Phải làm việc ích lợi

4. Phẩm cách làm người bình đẳng (chẳng nên tặng mình tự cao, tự trọng, phải tôn kính bậc trưởng thượng).

6 NGUỒN GỐC

1. Thần lửa là gốc của đạo Bà La Môn

2. Vua là gốc của tất cả con người

3. Biển là gốc của tất cả sông rạch

4. Thái âm là gốc của tất cả tinh tú

5. Thái dương là gốc của tất cả sự nóng nực

6. Chư Tăng là gốc của tất cả chúng sanh.

NGŨ UẨN

Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

3 TƯ CÁCH

1. Tư cách chẳng làm điều dữ

2. Tư cách làm thêm những việc lành

3. Tư cách làm cho tâm trong sạch.

6 TƯ CÁCH DO NHỊN NHỤC

1. Tư cách không phỉ báng kẻ khác

2. Tư cách không làm khổ kẻ khác

3. Tư cách thu thúc trong giới luật

4. Tư cách có tiết độ trong việc ăn uống

5. Tư cách nằm ngồi trong chốn thanh vắng

6. Tư cách cố gắng trong sự tu tâm.

2 PHÁP KHÔNG TA

Nhơn vô ngã - Pháp vô ngã.

5 PHÁP GIÁC

1. Danh - 2. Tướng - 3. Vọng tướng - 4. Chánh trí - 5. Như như.

3 TẠNG PHÁP THÂN

Kinh tạng Luật tạng Luận tạng

3 BẢO

Phật bảo Pháp bảo Tăng bảo

7 TÌNH

Hỷ - Nộ - Ái - Ố - Ai - Lạc - Dục.

3 TU

Giới Định Huệ

3 HỌC

Giới Định Huệ.

4 ĐẠO

1. Nhập lưu đạo

2. Nhứt vãng lai đạo

3. Bất lai đạo

4. Vô sanh đạo.

4 QUẢ

1. Nhập lưu quả

2. Nhứt vãng lai quả

3. Bất lai quả

4. Vô sanh quả.

4 NIẾT BÀN

1. Hữu dư Niết bàn của bậc A La Hán

2. Vô dư Niết bàn của bậc Bích Chi

3. Đại Niết bàn của bậc Bồ Tát

4. Vô thượng Đại Niết bàn của bậc Như Lai.

5 PHƯƠNG PHÁP ĐỂ TRAU TRÍ HUỆ VÀ SỰ MINH TRIẾT

1. Phải xem kinh đọc sách

2. Phải năng biên chép và ghi nhớ

3. Phải năng suy cứu và thực hành để tìm đạo quả

4. Phải năng soạn dịch nghĩa lý Phật pháp

5. Phải năng tựu họp để biện luận về sự yên vui.

4 NHÂN PHẤN KHỞI TRÍ HUỆ

1. Sự giao thiệp với bậc thiện tri thức có 3 nghiệp thiện

2. Sự ghi pháp và cung kỉnh giữ lời giảng giải

3. Sự suy xét cho rõ lý để hành theo

4. Sự ráng hành theo các pháp mà đã suy xét rồi.

3 GIÁO LÝ

1. Lánh các điều ác

2. Làm các điều lành

3. Rửa lòng trong sạch.

3 CÁI MINH

1. Biết rõ tiền kiếp

2. Biết rõ sự sanh và tử

3. Biết rõ các pháp trầm mê.

4 HUỆ GIẢI TÍCH

1. Biết rõ các pháp

2. Biết cả nghĩa lý

3. Biết cả tiếng nói

4. Phát đại trí huệ.

3 CÁI ƠN CỦA PHẬT

1. Cái ơn đức về trí huệ

2. Cái ơn đức về sự trọn lành

3. Cái ơn đức về sự đại Từ bi.

4 ĐIỀU PHẬT DẠY

1. Chúng sanh hằng bị già bịnh dắt về chỗ chết

2. Chúng sanh không nơi nương tựa, không làm chủ sự sống

3. Chúng sanh không có một vật chi của mình được

4. Chúng sanh hằng bị thiếu thốn, làm tôi mọi cho ái dục.

3 SỰ TRẦM NỊCH

1. Trầm nịch trong ngũ dục về dục giới

2. Trầm nịch trong tà kiến

3. Trầm nịch trong vô minh.

3 TÂM VÔ THƯỜNG

1. Vô thường về ý tưởng

2. Vô thường về tâm thức

3. Vô thường về kiến thức.

3 VI TẾ PHIỀN NÃO

1. Vi tế phiền não về tình dục

2. Vi tế phiền não về tà kiến

3. Vi tế phiền não về vô minh.

4 ĐIỀU THIÊN VỊ

1. Thiên vị vì lòng dục vọng

2. Thiên vị vì lòng sân hận

3. Thiên vị vì lòng si mê

4. Thiên vị vì lòng sợ sệt.

4 ĐIỀU BUỘC RÀNG

1. Buộc ràng vì tính tham lam

2. Buộc ràng vì tính ưa hại người

3. Buộc ràng vì thói quen đã có

4. Buộc ràng vì chấp rằng: chúng sanh vạn vật trường tồn.

4 NGUỒN TỘI LỖI

1. Nguồn tình dục

2. Nguồn thường kiến

3. Nguồn đoạn kiến

4. Nguồn vô minh.

2 CÁCH HỎI CỦA PHẬT

1. Hỏi để thừa dịp thuyết pháp

2. Hỏi để nghiêm răng giới luật cho thinh văn.

4 SỰ CHẤP

1. Sự mê chấp theo ngũ dục và sắc giới

2. Sự mê chấp theo tà kiến

3. Sự mê chấp theo pháp của mình đã quen hành

4. Sự mê chấp theo cái ta.

5 SỰ BỎN SẺN

1. Bỏn sẻn về chỗ ở

2. Bỏn sẻn về tình quen thuộc và bậu bạn

3. Bỏn sẻn về sự khen tặng và sắc đẹp

4. Bỏn sẻn về sự lợi lộc

5. Bỏn sẻn về cái pháp.

10 PHÁP SAI LẦM

1. Sự hiểu theo tà đạo

2. Sự suy nghĩ sai bởi ba cái tâm thức

3. Lời nói không đúng đắng có bốn

4. Sự hành động không đúng đắng có ba

5. Sự nuôi mạng không chơn chánh có năm

6. Sự tinh tấn không đúng đắng trúng cách

7. Sự ghi nhớ không đúng đắng, ghi nhớ bậy

8. Thiền định không đúng đắng chủ tâm sai quấy

9. Tin tưởng không đúng đắng

10. Sự biết sai.

3 CÁI TIỀM THỨC

1. Ái tình - 2. Thù hận -3. Lấn áp.

7 CÁI VI TẾ PHIỀN NÃO

1. Vi tế phiền não về tình dục

2. Vi tế phiền não về sự sanh

3. Vi tế phiền não về sự cố giận

4. Vi tế phiền não về tâm ngã mạn

5. Vi tế phiền não về tâm tà kiến

6. Vi tế phiền não về sự hoài nghi

7. Vi tế phiền não về vô minh.

10 ĐIỀU PHIỀN NÃO

1. Tâm dính dấp theo ngũ dục

2. Tâm sân hận trong ngũ dục

3. Tâm lầm lạc trong ngũ dục

4. Chấp ta

5. Chấp rằng cảnh sắc là nơi yên vui

6. Tâm lừ đừ

7. Tâm mê mệt

8. Tâm xao lãng

9. Tâm không hổ thẹn với điều tội lỗi

10. Tâm không biết ghê sợ những điều tội lỗi.

3 HẠNG PHỤ NỮ XUẤT GIA

1. Là nhiễm cái sở hành trong Giáo hội

2. Bị hoàn cảnh áp bức

3. Mộ chủ nghĩa độc thân.

3 NIẾT BÀN

1. Phiền não Niết bàn

2. Ngũ uẩn Niết bàn

3. Xá lợi Niết bàn.

10 TÂM TRÀO LƯU SANH TỬ

1. Vô minh hôn ám

2. Hay gần bạn dữ

3. Chẳng vui theo điều lành

4. Tâm nghiệp tạo ác

5. Ác tâm rải khắp

6. Tâm ác liên tiếp theo nhau

7. Giấu điều tội lỗi

8. Chẳng sợ đường dữ

9. Chẳng hổ chẳng kiên

10. Chấp sai tánh tội.

10 TÂM NGƯỢC TRÀO LƯU SANH TỬ

1. Thâm tín nhơn quả

2. Hổ thẹn và kiêng nể

3. Sanh lòng sợ sệt

4. Phát lồ sám hối

5. Dứt đoạn ác tâm liên tiếp

6. Phát Bồ đề tâm

7. Lánh dữ theo lành

8. Giữ gìn chánh pháp

9. Hằng nhớ chư Phật

10. Xét tội tánh không.

4 THỨ THÁP

1. Xá lợi tháp - 2. Vật dụng tháp - 3. Pháp tháp - 4. Kim thân tháp.

4 NƠI ĐỘNG TÂM

1. Chỗ Phật ra đời

2. Chỗ Phật chứng quả

3. Chỗ Phật quay bánh xe pháp lần đầu

4. Chỗ Phật nhập Niết bàn.

4 CHỖ THẦN THÔNG

1. Chỗ Phật từ cung trời Đạo Lợi giáng trần

2. Chỗ Phật hiện thần thông tương đối

3. Chỗ Phật hàng phục con voi dữ

4. Chỗ Phật cảm phục đức vua Bénarès.

4 ĐẠO XỨ ẤN ĐỘ

1. Bouddha - 2. Brahma - 3. Jéna - 4. Ajivaka.

8 ĐIỀU BIẾT VÔ ÍCH THẤP HÈN

1. Biết sách giải về thể học

2. Biết sách giải về các nguyên nhân khác

3. Biết sách giải về thiên văn học

4. Biết sách giải về đoán mộng

5. Biết sách giải về thần tướng học

6. Biết sách giải về sự cúng dường thần lửa

7. Biết sách giải về chuột cắn

8. Biết phương pháp cúng dường gia.

10 MỐI MÊ LẦM

1. Mê lầm bổn ngã - 2. Nghi não - 3. Ham mộ nghi lễ cúng kiến - 4. Tham dục - 5. Tham sắc - 6. Tham vô sắc - 7. Sân hận - 8. Tự cao - 9. Xao động - 10. Vô minh.

5 PHẦN HƯƠNG

1. Giới hương - 2. Định hương - 3. Huệ hương - 4. Giải thoát hương - 5. Giải thoát tri kiến hương.

LỤC ĐỘ

1. Bố thí - 2. Trì giới - 3. Nhẫn nhục - 4. Tinh tấn - 5. Thiền định - 6. Trí huệ.

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

1. Từ vô lượng tâm

2. Bi vô lượng tâm

3. Hỷ vô lượng tâm

4. Xả vô lượng tâm

7 MÓN BÁU NHÀ PHẬT

1. Biết hổ thẹn tội lỗi - 2. Biết ghê sợ tội lỗi - 3. Đức tin - 4. Nghe pháp - 5. Bố thí - 6. Trì giới - 7. Trí huệ.

6 ĐẠO CHÚNG SANH

1. Địa ngục - 2. Ngạ quỷ - 3. Súc sanh - 4. A-tu-la - 5. Nhơn - 6. Thiên.

7 QUẢ PHÁP

1. Nhập lưu - 2. Nhứt vãng lai - 3. Bất lai - 4. Vô sanh - 5. Duyên Giác - 6. Bồ Tát - 7. Như Lai.

17 CÁCH NHỚ

1. Cách nhớ tự nhiên

2. Bởi sự kích thích bên ngoài

3. Bởi ảnh hưởng một vinh quang

4. Bởi ảnh hưởng một dịp may

5. Bởi ảnh hưởng một dịp rủi

6. Bởi một việc mường tượng

7. Bởi một việc trái hẳn

8. Bởi nghe lời nói

9. Bởi dấu hiệu

10. Bởi sự thúc giục

11. Bởi quen tay

12. Bởi quen tánh

13. Bởi thuộc lòng

14. Bởi tham thiền

15. Bởi ghi vào sổ sách

16. Bởi để cất

17. Bởi tín hiệp.

MÁY IN PHÁP ẤN

46,Rue Thoại Ngọc Hầu - Long xuyên

Giấy phép số 87, B.K.S.A.L.P. Lgx ngày 27-4-1954