Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 03 - Phần 03 - MP3 và Ebook

  1. Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 03 - Phần 03

Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển Ba - Phần Ba

4. TÁNH PHONG ĐẠI VỐN VÔ SANH

- A Nan! Tánh PHONG chẳng có tự thể, động tịnh không chừng. Ngươi thường ở nơi chúng mà sửa áo, chéo áo Tăng Già Lê chạm đến người bên cạnh thì có chút gió phất qua mặt người kia, vậy gió này từ chéo áo Cà Sa ra, từ hư không ra, hay từ mặt người kia ra?

- A Nan! Nếu gió từ chéo áo Cà Sa ra thì Ngươi đã mặc luôn cả gió, lẽ ra cái áo phải tung bay ra, rời khỏi thân Ngươi. Nay Ta rũ áo ở trong Hội này, Ngươi hãy xem cái áo của Ta, gió núp ở chỗ nào? Chẳng lẽ trong áo lại có chỗ chứa gió ư?

- Nếu gió từ hư không ra, khi cái áo Ngươi chẳng động, thì sao lại chẳng phất? Tánh hư không thường trụ thì gió phải thường sanh, vậy lúc chẳng gió, hư không phải diệt; gió diệt còn có thể thấy được, hư không diệt thì là hình tướng gì? Nếu có sanh diệt thì chẳng gọi là hư không, đã gọi là hư không thì làm sao lại có gió ra?

- Nếu gió từ mặt người bị phất sanh ra, thì đã từ mặt người đó ra, lẽ ra phải phất lại Ngươi, sao tự Ngươi sửa áo mà phất ngược lại người kia?

- Ngươi hãy xét kỹ; sửa áo do Ngươi, cái mặt thì thuộc người kia, hư không thì vắng lặng chẳng lay động, vậy gió từ phương nào dong ruổi đến đây? Tánh gió và tánh hư không khác nhau, chẳng hòa chẳng hợp, chẳng lẽ tánh gió khi không tự có ư?

- Ngươi vốn chẳng biết, trong Như Lai Tạng, tánh phong chơn không, tánh không chơn phong, tự tánh vốn thanh tịnh, cùng khắp mười phương pháp giới, tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy, biến hiện các cảnh giới hiện hữu. A Nan, như một mình Ngươi hơi động cái áo thì có chút gió ra, khắp pháp giới đều phất thì khắp pháp giới đều ra gió, tánh phong đầy khắp thế gian, đâu có xứ sở, chỉ theo nghiệp thức của chúng sanh mà biến hiện. Người thế gian chẳng biết, lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều là do tâm thức phân biệt suy lường. Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.

5. TÁNH KHÔNG ĐẠI VỐN VÔ SANH

- A Nan! Tánh KHÔNG vô hình, nhờ sắc tướng mới được hiển bày. Như trong thành Thất La Phiệt, chỗ cách xa sông, những dòng Sát Ly, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, Phả La Đọa, Chiên Đà La v.v... khi dựng nhà xong, đào giếng lấy nước, đào ra một thước đất thì có một thước hư không; như vậy cho đến đào ra một trượng đất thì lại được một trượng hư không, hư không sâu hay cạn là tùy theo đất đào ra được nhiều hay ít. Vậy hư không này từ đào đất ra, do đào mà có, hay vô nhân tự sanh?

- A Nan! Nếu hư không vô nhân tự sanh, thì khi chưa đào đất, sao nơi đó lại chẳng vô chướng ngại, mà chỉ thấy đất liền, chẳng thấy trống rỗng?

- Nếu từ đào đất ra, thì khi đất ra, phải thấy hư không vào; nếu đất ra trước mà không thấy hư không vào, thì sao nói hư không từ đào đất mà ra? Nếu chẳng ra vào thì hư không với đất vốn chẳng có khác, chẳng khác tức là đồng, thì lúc đào đất ra, hư không sao chẳng ra? Nếu do đào mà có, thì phải đào ra hư không, chứ chẳng phải đào ra đất; nếu chẳng do đào mà có thì tự đào ra đất, làm sao lại thấy hư không?

- Ngươi hãy xét kỹ, đào do tay người vận động, đất theo sự đào mà dời chỗ, vậy hư không từ đâu mà ra? Đào thì có thật chất, hư không thì trống rỗng, chẳng tác dụng với nhau, chẳng hòa chẳng hợp, chẳng lẽ hư không khi không tự ra?

Vậy, tánh hư không cùng khắp, vốn chẳng lay động. Nên biết hiện tiền Địa, Thủy, Hỏa, Phong và Hư Không gọi là Ngũ Đại, tánh thật viên dung, đều là Như Lai Tạng, vốn chẳng sanh diệt.

- A Nan! Tâm Ngươi mê muội, chẳng ngộ được tứ đại vốn là Như Lai Tạng, Ngươi hãy xem hư không là ra hay vào; hoặc chẳng ra vào? Ngươi vốn chẳng biết trong Như Lai Tạng, tánh giác chơn không, tánh không chơn giác, Tự Tánh vốn thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy biến hiện các cảnh giới hiện hữu.

A Nan! Như đào một giếng thì ra một giếng hư không, vậy mười phương hư không cũng như thế, tánh KHÔNG cùng khắp mười phương, đâu có xứ sở, chỉ theo nghiệp thức của chúng sanh mà biến hiện. Người thế gian chẳng biết, lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều là do tâm thức phân biệt suy lường. Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.

6. TÁNH KIẾN ĐẠI VỐN VÔ SANH

- A Nan! BỔN KIẾN, BỔN GIÁC vốn chẳng có năng tri sở tri, vì Sắc và Không mới có lập năng sở. Như Ngươi hôm nay ở vườn Kỳ Đà, ngày sáng đêm tối, nếu nửa đêm có trăng thì sáng, không trăng thì tối, do kiến tinh phân biệt nên có sáng và tối. Vậy kiến này với tướng sáng, tối và hư không, là một thể hay chẳng phải một thể? Hoặc đồng, chẳng đồng? Hoặc khác, chẳng khác?

- A Nan! Nếu cái kiến này cùng với sáng, tối, hư không vốn là một thể, thì sáng và tối hai tướng nghịch nhau, khi sáng chẳng tối, khi tối chẳng sáng. Nếu cùng với tối đồng một thể thì khi sáng, cái kiến biến mất, hễ cùng với sáng đồng một thể, thì khi tối, cái kiến ấy phải diệt, đã diệt thì lấy gì để thấy sáng thấy tối? Nếu sáng tối khác nhau, kiến chẳng sanh diệt thì đâu có thể nói là một thể được?

Nếu cái kiến này cùng với sáng tối chẳng phải một thể, thì Ngươi lìa sáng, tối và hư không, phân tách cái kiến tinh xem là hình tướng gì? Lìa sáng, tối và hư không thì kiến tinh đồng như lông rùa sừng thỏ. Sáng, tối, hư không ba thứ đều khác biệt, vậy từ đâu mà lập kiến tinh? Sáng, tối nghịch nhau, làm sao nói đồng được? Lìa ba thứ vốn chẳng có, làm sao nói khác được? Hư không và kiến tinh vốn chẳng có ranh giới, làm sao nói chẳng đồng? Thấy sáng thấy tối, sở kiến thay đổi, làm sao nói chẳng khác?

- Ngươi cần phải xem xét vi tế kỹ càng, xét tới cứu cánh triệt để. Sáng do mặt trời, tối do đêm không trăng, thông thuộc về hư không, nghẽn thuộc về đại địa, kiến tinh có giác, hư không vô tri, chẳng hòa chẳng hợp, vậy kiến tinh từ đâu mà ra? Chẳng lẽ khi không tự ra?

- Nên biết KIẾN, VĂN, GIÁC, TRI, thể tánh viên mãn cùng khắp mọi nơi, vốn chẳng lay động, với hư không vô biên chẳng động, và địa, Thủy, Hỏa, Phong, lay động, cùng gọi là Lục Đại, thể tánh viên dung, đều là Như Lai Tạng, vốn chẳng sanh diệt.

- A Nan! Ngươi đánh mất tự tánh, chẳng ngộ kiến, văn, giác, tri của Ngươi vốn là Như Lai Tạng. Ngươi hãy xem cái kiến, văn, giác, tri này là sanh hay diệt, là đồng hay dị, là chẳng sanh diệt hay chẳng đồng dị? Ngươi còn chẳng biết, trong Như Lai Tạng, tánh kiến giác minh, giác tinh minh kiến (cái bổn kiến là tự tánh vốn giác vốn minh, cái tinh thể của bổn giác vốn minh vốn kiến), vốn tự nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy mà biến hiện các cảnh giới hiện hữu. Như một “kiến tinh” thấy cùng pháp giới, cho đến tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân xúc, ý biết, sự diệu dụng rõ ràng viên mãn, cùng khắp mười phương pháp giới, đâu có xứ sở, chỉ theo nghiệp thức của chúng sanh biến hiện. Người thế gian chẳng biết, lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều do tâm thức phân biệt suy lường. Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.

7. TÁNH THỨC ĐẠI VỐN VÔ SANH

- A Nan! Tánh của TÂM THỨC vốn chẳng có nguồn gốc, duyên theo sáu thứ căn trần hư vọng mà sanh. Nay Ngươi hãy xem khắp Thánh chúng trong hội này khi mới dùng con mắt lướt qua, chưa khởi phân biệt thì thấy chúng chỉ như bóng tượng trong gương, rồi tâm thức của Ngươi theo thứ tự phân biệt đây là Văn Thù, đây là Phú Lâu Na, rồi tới Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Xá Lợi Phất v.v...Vậy sự biết của tâm thức này từ kiến tinh ra, từ sắc tướng ra, từ hư không ra, hay khi không vô nhân mà ra?

- A Nan! Giả sử tâm thức của Ngươi từ kiến tinh ra, nếu chẳng có sáng tối và sắc không, thì chẳng có kiến tinh, kiến tinh còn chẳng có, vậy tâm thức từ đâu mà ra?

Nếu tâm thức của Ngươi từ sắc tướng ra, chẳng từ kiến tinh ra, thì chẳng thấy sáng, cũng chẳng thấy tối, sáng tối đã chẳng thấy tức là chẳng có sắc không, sắc tướng kia còn chẳng có thì tâm thức do đâu mà ra?

Nếu từ hư không ra, chẳng phải sắc tướng, cũng chẳng phải kiến tinh. Nếu chẳng phải kiến tinh thì chẳng thể phân biệt, tự nhiên không thể biết được các tướng sáng tối và sắc không. Nếu chẳng phải sắc tướng thì sở duyên diệt mất, vậy kiến, văn, giác, tri chẳng có chỗ an lập. Giữa hai thứ chẳng phải kể trên, nếu “không” thì tâm thức đồng như chẳng có; nếu “có” thì tâm thức đồng như các vật, dẫu cho có tâm thức của Ngươi cũng thành vô dụng.

LƯỢC GIẢI

Hư không vô hình, vốn chẳng có Bản Thể, nếu tâm thức từ hư không ra thì cũng giống như hư không, chẳng có Bản Thể để nương tựa, tức là tâm thức chẳng phải sắc tướng, cũng chẳng phải kiến tinh. Giữa hai thứ chẳng phải kể trên, nếu cho là “không Bản Thể” thì tâm thức đồng như không có; nếu cho là “có Bản Thể” thì tâm thức đồng như các vật; vật thì vô tri, chẳng có tánh phân biệt, vậy dẫu cho có tâm thức cũng thành vô dụng.

Nếu khi không vô nhân mà ra, thì sao chẳng cho mặt trời là mặt trăng?

- Ngươi hãy suy xét kỹ càng, cái thấy phải nhờ mắt Ngươi, sắc tướng là cảnh của tiền trần; những gì có tướng mới thành có, chẳng tướng ắt thành không, như vậy tâm thức từ đâu mà ra?

- Tâm thức thì linh động, kiến tinh thì trong lặng, chẳng hòa chẳng hợp, kiến, văn, giác, tri đều như thế, chẳng lẽ tâm thức khi không tự ra?

- Nếu tâm thức này vốn chẳng từ chỗ nào ra, sự dụng của kiến, văn, giác, tri trạm nhiên viên mãn, tánh chẳng năng sở. Vậy Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Hư Không và Bổn Kiến, Bổn Thức, gọi là Thất Đại, thể tánh chơn thật viên dung, ấy đều là Như Lai Tạng, vốn chẳng sanh diệt.

- A Nan! Tâm Ngươi vọng chấp, chẳng ngộ kiến, văn, giác, tri, vốn là Như Lai Tạng, Ngươi hãy xét sáu chỗ tâm thức này là đồng hay dị, là có hay không, là chẳng đồng dị hay chẳng có không?

- Ngươi vốn chẳng biết, trong Như Lai Tạng, tánh thức minh tri, giác minh chơn thức (tánh của bổn thức rõ ràng chơn tri, không phải như sự hiểu biết của thế gian có đối đãi và phân biệt), diệu giác trạm nhiên, như như bất động, chẳng thể nghĩ lường được, đầy trùm pháp giới, hiển bày khắp mười phương hư không đâu có xứ sở, tùy theo nghiệp của chúng sanh biến hiện các cảnh giới hiện hữu. Người thế gian chẳng biết, lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều là do tâm thức phân biệt suy lường. Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.

Bấy giờ, A Nan và đại chúng được sự khai thị vi diệu của Phật, thân tâm phẳng lặng, chẳng còn ngăn ngại, mỗi mỗi tự biết tâm thức cùng khắp mười phương, thấy mười phương hư không như xem các vật trong bàn tay; tất cả vật tượng trên thế gian đều vốn là tánh Bồ Đề sáng suốt của Diệu Tâm. Tâm tánh tròn đầy, cùng khắp mười phương, xem lại cái thân của cha mẹ sanh ra, như mảy bụi lửng lơ trong mười phương hư không thoạt còn thoạt mất; như một bọt nước trôi trong biển cả, chẳng biết sanh diệt từ đâu. Rõ ràng tự biết được cái Bổn Lai thường trụ chẳng diệt của Diệu Tâm, được pháp chưa từng có, nên chắp tay lễ Phật và nói kệ tán thán Phật rằng:

Diệu trạm tổng trì bất động tôn,

Thủ Lăng Nghiêm Vương thế hy hữu.

Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng.

Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.

Nguyện kim đắc quả thành Bửu Vương

Hườn độ như thị hằng sa chúng.

Tương thử thâm tâm phụng trần sát,

Thị tắc danh vi báo Phật ân.

Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh,

Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập.

Như nhất chúng sanh vị thành Phật,

Chung bất ư thử thủ nê hoàn,

Đại hùng đại lực đại từ bi,

Hy cánh thẩm trừ vi tế hoặc.

Linh ngã tảo đăng vô thượng giác,

Ư thập phương giới tọa đạo tràng,

Thuấn Nhã Đa tánh khả tiêu vong,

Thước Ca Ra tâm vô động chuyển.

Dịch nghĩa:

Trong lặng vạn năng chẳng động tịnh ([1])

Lăng Nghiêm Đại Định đời hy hữu ([2])

Tiêu điên đảo tưởng từ vô thỉ,

Chẳng nhọc nhiều kiếp được Pháp thân.

Nguyện nay đắc quả thành Chánh Giác,

Độ thoát chúng sanh như Hằng sa.

Hết lòng phụng sự vô số cõi,

Thế mới gọi là đền ơn Phật,

Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho,

Ngũ trược ác thế nguyện vào trước,

Nếu một chúng sanh chưa thành Phật,

Quyết chẳng tự mình chứng Niết Bàn,

Đại Hùng đại lực đại từ bi,

Mong dứt trừ tập khí vi tế.

Khiến con mau đến Vô Thượng Giác,

Mười phương thế giới tọa đạo tràng.

Dẫu cho hư không bị tiêu mất,

Bổn tâm kiên cố chẳng lay động.

HẾT QUYỂN BA