Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 05 - Phần 01 - MP3 và Ebook
Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển Năm - Phần Một
A Nan bạch Phật rằng :
- Như Lai dù đã khai thị nghĩa thứ hai, nhưng con xét những người mở thắt kết, nếu chẳng biết cái gốc của thắt kết, thì con tin chắc người ấy chẳng bao giờ mở được. Thế Tôn, con và hàng hữu học Thanh văn trong hội cũng như vậy; chúng con với vô minh cùng sanh cùng diệt từ vô thỉ, dù được thiện căn đa văn, mang tiếng là xuất gia, mà sự tu như người sốt rét cách nhật, lúc có lúc không. Xin Phật từ bi thương xót kẻ chìm đắm, khai thị thế nào là cái thắt kết của thân tâm hiện hữu này, làm sao được mở, cũng khiến chúng sanh khổ não đời vị lai được ra khỏi luân hồi.
Nói xong, cùng đại chúng năm vóc gieo sát đất, cung kính rơi lệ, mong đợi lời khai thị vô thượng của Phật.
Bấy giờ, Thế Tôn thương xót A Nan và hàng hữu học trong hội, đồng thời làm nhân xuất thế gian, chỉ đường cho tất cả chúng sanh đời vị lai, lấy tay xoa đầu A Nan. Liền đó, sáu thứ rung động khắp mười phương thế giới, vô số Như Lai trong các cõi ấy, mỗi mỗi đều từ đỉnh đầu phóng ra hào quang, đồng thời chiếu đến rừng Kỳ Đà, rọi vào đỉnh đầu Như Lai, cả chúng đều được pháp chưa từng có.
Lúc ấy, A Nan và đại chúng đều nghe mười phương Như Lai đồng thanh bảo A Nan rằng:
- Lành thay A Nan! Ngươi muốn biết cái Câu Sinh Vô Minh (căn bản vô minh), là gốc thắt kết khiến Ngươi lưu chuyển trong vòng sanh tử, ấy chính là lục căn của Ngươi chứ chẳng phải vật khác; Ngươi lại muốn biết đạo Vô Thượng Bồ Đề khiến Ngươi mau chứng quả tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ ấy, cũng chính là lục căn của Ngươi chứ chẳng phải vật khác.
A Nan! Dù được nghe pháp âm như vậy, tâm còn chưa rõ, cúi đầu bạch Phật:
- Tại sao khiến con bị sanh tử luân hồi và được tự tại giải thoát đều là lục căn, chẳng phải vật khác?
Phật bảo A Nan:
- Căn trần cùng gốc, thắt mở chẳng hai, tánh thức hư vọng như hoa đốm trên không. A Nan, do trần phát tri, vì căn kiến tướng; kiến và tướng chẳng có tự tánh, như những cây gậy gác vào nhau, cho nên Ngươi nay lập tri kiến thành tri, tức là căn bản của vô minh, nếu đối với tri kiến chẳng chấp là tri kiến, ấy tức là Niết Bàn trong sạch vô lậu, làm sao trong đó còn có thể dung nạp vật khác.
Bấy giờ, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên, bèn nói kệ rằng:
Chơn tánh hữu vi không,
Duyên sanh cố như huyễn.
Vô vi vô khởi diệt,
Bất thật như không hoa.
Ngôn vọng hiển chư chơn,
Vọng chơn đồng nhị vọng.
Do phi chơn phi chơn,
Vân hà kiến sở kiến?
Trung gian vô thật tánh,
Thị cố nhược giao lô.
Kết giải đồng sở nhân,
Thánh phàm vô nhị lộ.
Nhữ quán giao trung tánh,
Không hữu nhị câu phi.
Mê hối tức vô minh,
Phát minh tiện giải thoát.
Giải kết nhân thứ đệ,
Lục giải nhất diệt vong.
Căn tuyển trạch viên thông,
Nhập lưu thành Chánh Giác.
Đà Na vi tế thức,
Tập khí thành bạo lưu.
Chơn phi chơn khủng mê,
Ngã thường bất khai diễn.
Tự tâm thủ tự tâm,
Phi huyễn thành huyễn pháp.
Bất thủ vô phi huyễn,
Phi huyễn thượng bất sanh.
Huyễn pháp vân hà lập?
Thị danh Diệu Liên Hoa,
Kim Cang Vương Bửu Giác.
Như huyễn Tam Ma Đề,
Đờn chỉ siêu vô học.
Thử A Tỳ Đạt Ma,
Thập phương Bạt Già Phạm,
Nhất lộ Niết Bàn môn.
Dịch nghĩa:
Tánh hữu vi vốn không,
Duyên sanh nên như huyễn.
Vô vi không sanh diệt,
Chẳng thật như hoa đốm.
Nói vọng để hiển chơn,
Vọng chơn là hai vọng.
Phi chơn phi bất chơn,
Làm sao kiến sở kiến?
Trong đó chẳng thật tánh,
Nên như sậy gác nhau.
Thắt, mở đồng một nhân,
Thánh phàm chẳng hai đường,
Ngươi xem tánh gác nhau,
Không, Hữu thảy đều sai.
Mê muội tức vô minh,
Phát minh liền giải thoát.
Mở, thắt theo thứ tự,
Lục mở nhất cũng tiêu
Chọn căn nào viên thông,
Nhập lưu thành Chánh Giác.
Đà Na (thức thứ tám) thức vi tế,
Tập khí như nước dốc.
Sợ chấp Chơn phi chơn,
Nên Ta chẳng khai giảng.
Tự tâm chấp tự tâm,
Phi huyễn thành pháp huyễn.
Chẳng chấp chẳng phi huyễn,
Phi huyễn còn chẳng sanh,
Pháp huyễn làm sao lập?
Đây gọi Diệu Liên Hoa,
Bửu giác như Kim Cang.
Tu theo Tam Ma Đề,
Búng tay siêu vô học.
Pháp này chẳng gì bằng,
Mười phương chư Như Lai,
Chỉ một cửa Niết Bàn.
LƯỢC GIẢITrước kia, A Nan hỏi Phật những phương tiện đầu tiên về ba thứ Thiền Quán: Sa Ma Tha, Tam Ma và Thiền Na, mà mười phương Như Lai đã tu được thành Chánh Giác. Nay mười phương Như Lai đồng thanh đáp lại A Nan rằng: “Ngươi muốn biết cái Câu Sinh Vô Minh, là gốc thắt kết khiến Ngươi lưu chuyển trong vòng sanh tử, ấy chính là lục căn của Ngươi chứ chẳng phải vật khác; Ngươi lại muốn biết Đạo Vô Thượng Bồ Đề, khiến Ngươi mau chứng quả tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ ấy, cũng chính là lục căn của Ngươi, chứ chẳng phải vật khác”.
Cũng như lời thí dụ băng nước kể trên, nước đóng thì thành băng, đâu thể cho lộn vật khác mà thành băng; băng tan thì thành nước, đâu thể cho lộn vật khác mà thành nước.
Lục căn làm mai mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà, ấy là lục căn; lục mở nhất tiêu, mau chứng Chánh Giác, cũng là lục căn. Vậy tức vọng tức chơn, tức chơn tức vọng, chỗ này cần phải có diệu ngộ mới được, chữ DIỆU này lời nói chẳng thể diễn tả, ắt phải chuyển thức thành trí, khế hợp với Diệu Tâm sáng tỏ, mới có thể nói là Vô Thượng Bồ Đề.
Bửu Giác như Kim Cang: Tánh Kim Cang hay phá hủy tất cả, Thập Địa đều gọi là Tâm Kim Cang, như phá hủy sơ địa lên nhị địa, phá hủy nhị địa lên tam địa v.v... Nếu Bửu Giác này được hiện ra, chẳng những căn bản vô minh liền tiêu, cả Tri Kiến Bồ Tát và Tri Kiến Phật cũng không còn. Ba thứ Thiền quán Sa Ma Tha, Tam Ma và Thiền Na chỉ cần tự ngộ, hễ ngộ thì liền đến địa vị Phật, nên trong búng ngón tay siêu việt bậc vô học của nhị thừa. Bậc vô học vì còn chấp vô kiến, tức còn lọt vào công dụng, đây chơn tánh hiện tiền, hữu vô đều lìa, một cửa sâu vào, chẳng phải nhờ công dụng, nên gọi là cửa Đốn Ngộ vậy, (chẳng nhờ công dụng là chẳng phải chẳng cần công phu).
A Nan và đại chúng nghe lời dạy vô thượng và bài tụng tinh túy, diệu lý trong suốt của Phật, tâm được sáng tỏ, tán thán pháp chưa từng có. A Nan chắp tay đảnh lễ bạch Phật:
- Nay con dù nghe pháp tánh chơn thật, vi diệu trong sạch của Phật, nhưng tâm còn chưa thấu nghĩa “lục mở nhất tiêu” theo thứ tự của mở thắt, xin Phật rủ lòng từ bi, thương xót cả hội này và chúng sanh đời vị lai, bố thí pháp âm và rửa sạch trần cấu cho chúng con.
Tức thời, Như Lai từ nơi tòa sư tử, chỉnh áo trong và sửa đại y, dựa vào ghế thất bảo, lấy cái khăn bông của cõi Trời Dạ Ma cúng dường ở trước mặt đại chúng thắt một cái kết, rồi hỏi A Nan: Đây gọi là gì? A Nan và đại chúng đều đáp: Gọi là thắt kết.
Như Lai thắt thêm một kết nữa, lại hỏi A Nan: Đây gọi là gì?
A Nan và đại chúng lại đáp: Đây cũng gọi là thắt kết.
Phật tuần tự thắt sáu cái kết trên khăn, mỗi khi thắt xong một cái đều lấy cái kết vừa thắt hỏi A Nan: Đây gọi là gì? A Nan và đại chúng cũng tuần tự đáp lại Phật: Đây gọi là thắt kết.
Phật bảo A Nan: Khi Ta mới thắt cái khăn thì Ngươi gọi là thắt kết, khăn bông này vốn chỉ có một, tại sao lần thứ hai, lần thứ ba các Ngươi cũng gọi là thắt kết?
A Nan bạch Phật: Khăn này dù chỉ có một theo con nghĩ: Như Lai thắt một lần thì được gọi là một cái kết, nếu thắt đến trăm lần thì phải gọi là trăm cái kết, huống là khăn này chỉ có sáu kết, không lên đến bảy, cũng không ngưng ở năm, tại sao Như Lai chỉ cho cái đầu tiên được gọi là thắt kết, còn cái thứ hai, thứ ba thì chẳng gọi là thắt kết?
Phật bảo A Nan:
- Ngươi biết khăn bông này vốn chỉ là một, khi Ta thắt sáu lần thì gọi là sáu kết. Ngươi hãy xét kỹ, bản thể của khăn là đồng, do thắt kết mà thành khác. Ý Ngươi thế nào? Cái thắt kết đầu tiên thì gọi là kết thứ nhất, như vậy cho đến cái kết thứ sáu, nay Ta muốn gọi cái kết thứ sáu thành kết thứ nhất, có được chăng?
- Bạch Thế Tôn! Sáu kết nếu còn thì cái thứ sáu chẳng thể gọi là cái thứ nhất, dẫu cho con dùng hết biện tài nhiều kiếp để sáng tỏ nghĩa lý, cũng chẳng thể khiến sáu thắt kết lộn tên được.
Phật nói: - Đúng thế! Sáu kết chẳng đồng chỉ do một khăn tạo ra, nhưng muốn làm cho sáu kết đảo lộn tên gọi thì chẳng thể được. Lục căn của Ngươi cũng như vậy, trong tất cánh đồng, sanh tất cánh khác, Ngươi ắt chê sự khác nhau của sáu kết, mà mong muốn thành đồng một thì phải làm sao mới được.
A Nan đáp:
- Thắt kết nếu còn thì thị phi mống khởi, trong đó tự sanh phân biệt kết này chẳng phải kết kia, kết kia chẳng phải kết này. Nếu hôm nay Như Lai giải tỏa tất cả, thắt kết chẳng sanh nữa thì không có bỉ thử, nhất còn chẳng có, làm sao thành lục?
Phật bảo:
- Cái nghĩa “Lục mở nhất tiêu” cũng như thế, do tâm Ngươi cuồng loạn từ vô thỉ, vọng sanh tri kiến, sanh mãi không thôi, như con mắt ngó lâu mỏi mệt phát ra cảnh trần, thì có hoa đốm lăng xăng vọng khởi nơi tánh trong lặng, các tướng thế gian như núi sông, đất đai, sanh tử, Niết Bàn v.v... tất cả đều là tướng hoa đốm điên đảo do mỏi mệt mà phát sanh.
A Nan hỏi:
- Cái mỏi mệt này cũng như cái thắt kết kia, làm sao mở được?
Như Lai lấy tay cầm khăn đã thắt, kéo riêng mối bên trái, rồi hỏi A Nan:
- Thế này có mở được chăng?
- Bạch Thế Tôn! Không ạ. Phật lại lấy tay kéo riêng mối bên phải, hỏi A Nan:
- Thế này có mở được chăng?
- Bạch Thế Tôn! Không ạ.
Phật bảo A Nan:
- Nay Ta lấy tay kéo mối hai bên mà chẳng mở được, vậy Ngươi có cách nào để mở chăng?
- Bạch Thế Tôn! Nên mở nơi trung tâm thắt kết thì tan rã ngay.
Phật nói:
- Đúng thế! Đúng thế! Muốn giải tỏa thắt kết thì phải mở nơi trung tâm thắt kết. A Nan, Ta thuyết pháp từ nhân duyên sanh, chẳng phải lấy tướng thô hòa hợp của thế gian. Như Lai phát minh pháp thế gian và xuất thế gian, đều biết rõ bản nhân của nó theo sở duyên gì mà sanh; cho đến quá trình dời đổi của một giọt mưa ở ngoài hằng sa thế giới, trước mắt các thứ tùng thẳng, gai cong, cò trắng, quạ đen v.v.. đều rõ nguyên do.
A Nan! Nay tùy Ngươi lựa chọn một căn nơi Lục căn, nếu giải tỏa được gốc căn thì tướng trần tự diệt, vọng tưởng liền tiêu, vậy chẳng phải chơn là gì?
A Nan! Ta lại hỏi Ngươi:
- Cái khăn sáu kết này nếu cùng một lượt mở ra, có được chăng?
- Bạch Thế Tôn! Không ạ! Kết này khi thắt có thứ tự, nay mở ra cũng phải theo thứ tự. Sáu kết dù đồng thể, nhưng thắt chẳng cùng thời, thì làm sao có thể mở cùng một lượt?
Phật nói:
- Giải tỏa lục căn cũng như vậy, căn này vừa bắt đầu giải tỏa thì được Nhân Ngã Không, nếu tánh Không sáng tỏ, thì Pháp Ngã giải thoát, thành tựu pháp giải thoát xong, cả hai thứ Không đều chẳng sanh, ấy gọi là từ Tam Ma Địa, chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ Tát.
A Nan và đại chúng nghe Phật khai thị huệ giác viên thông, chẳng còn nghi hoặc, bèn chắp tay đảnh lễ, bạch Phật rằng:
- Nay chúng con thân tâm rõ ràng vô ngại, dù đã ngộ cái nghĩa “nhất lục đều tiêu”, nhưng còn chưa thấu đạt nguồn gốc của viên thông. Thế Tôn, chúng con bị trôi lăn lẻ loi từ nhiều kiếp, ngờ đâu lại được làm con của Phật, như đứa bé khát sữa bỗng được gặp mẹ, nếu nhân cơ hội này mà thành đạo, được mật ngôn của Phật, đồng với bổn ngộ của con, thì mới tự rõ: nghe và chưa nghe chẳng có sai biệt. Xin Phật rủ lòng từ bi ban cho bí nghiêm để con được thành tựu lời khai thị cuối cùng của Như Lai. Nói xong, năm vóc gieo sát đất, lui về chỗ ẩn mật, mong Phật âm thầm mật thọ.
LƯỢC GIẢIPhật khai thị “Huệ giác viên thông” tức “Lục mở nhất tiêu” và đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn kể trên, do “Lục mở” nên thân được vô ngại; do “nhất tiêu” nên tâm được vô ngại, dù chưa đến nơi lục căn thanh tịnh, nhưng nhổ nhất thì lục tiêu, lục tiêu thì nhất diệt, đã rõ ràng chẳng còn nghi hoặc, nhưng A Nan còn chưa ngộ nguồn gốc của viên thông ở đâu; căn nào viên thông nhất; dựa theo căn nào sâu vào mới mau chứng được viên thông.
Sự dựa theo căn viên thông, chứng quả viên thông, nơi A Nan thì do đó thành đạo, nơi Như Lai thì là lời khai thị cuối cùng, nên A Nan mong Phật chẳng tiếc bí nghiêm (pháp vi diệu nhiệm mầu), mà âm thầm mật thọ. Nếu nói về căn viên thông thì có thể hiển bày, so sánh căn nào viên thông nhất để dựa theo đó vào Tam Ma Địa còn có thể được; nếu muốn ngay đó chứng ngộ thì phải mỗi mỗi tự tu tự chứng, đâu thể nhờ lời nói mà đến được! Lời nói còn chẳng thể đến thì làm sao có thể mật thọ?
Nhưng theo ý của A Nan, mong Phật mật thọ, tức là Phật chẳng dùng lời nói để nói, gọi là mật ngôn; A Nan chẳng dùng cái nghe để nghe, gọi là bổn ngộ, nên nói “được mật ngôn của Phật, tức đồng bổn ngộ của con”, có nghe đồng như chưa nghe, thường nghe khi chưa nghe, gọi là chơn nghe, nên lui về chỗ ẩn mật mà mong cầu mật thọ.
Giả sử Phật có thể truyền thọ, A Nan có thể đắc được, thì chẳng phải là bí mật rồi, nếu do đó mà được chứng viên thông thì chẳng phải viên thông rồi. Sự chứng ngộ phải do tự ngộ, đâu thể do người khác ban cho mà được!
Lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo khắp chư Đại Bồ Tát và hàng vô lậu Đại A La Hán trong chúng rằng:
- Các Ngươi là hàng Bồ Tát và A La Hán trong pháp Ta, đã chứng quả vô học, nay Ta hỏi các Ngươi: trong lúc mới phát tâm, nơi Thập Bát Giới, ở giới nào mà ngộ được viên thông, và do phương tiện gì được vào Tam Ma Địa.
Kiều Trần Như trong nhóm năm vị Tỳ Kheo, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật mà bạch rằng:
- Con ở Lộc Uyển và Kê Viên được lời dạy của Phật khi mới thành đạo, do âm thanh Phật ngộ Tứ Thánh Đế. Khi đó, Phật hỏi các Tỳ Kheo, con là người ngộ giải trước tiên, Như Lai ấn chứng cho con tên là A Nhã Đa (ngộ giải), được diệu âm mật viên. Con do âm thanh mà đắc quả A La Hán, Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì ÂM THANH là hơn cả.
Ưu Ba Ni Sa Đà liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:
- Con cũng được lời dạy của Phật khi mới thành đạo, con quán tướng bất tịnh, sanh lòng nhàm chán, ngộ các tánh sắc đều là bất tịnh như xác chết, xương cốt thúi mục hóa ra vi trần, rồi cuối cùng trở thành hư không. Sắc và Không cả hai vốn chẳng có nên thành đạo vô học. Như Lai ấn chứng cho con tên là Ni Sa Đà (tánh không), tướng trần đã sạch, thì diệu sắc mật viên. Con do sắc tướng mà đắc quả A La Hán, Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con thì SẮC TƯỚNG là hơn cả.
Hương Nghiêm Đồng Tử liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- Con nghe Như Lai dạy quán các tướng hữu vi, khi về trai đường tĩnh tọa, đang lúc thiền quán, thấy các Tỳ Kheo đốt hương trầm thủy, mùi hương lặng lẽ bay vào lỗ mũi. Con quán mùi hương này phi gỗ phi không, phi khói phi lửa, chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu, do đó, ý căn tiêu diệt, phát minh vô lậu, Như Lai ấn chứng cho con hiệu là Hương Nghiêm, hương trần đã diệt thì diệu hương mật viên. Con do hương nghiêm đắc quả A La Hán, Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì HƯƠNG TRẦN là hơn cả.
Hai vị Pháp Vương Tử Dược Vương và Dược Thượng, cùng với năm trăm Phạm Thiên trong hội, liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- Chúng con làm lương y nơi thế gian nhiều kiếp từ vô thỉ, trong miệng từng nếm những cỏ cây, kim thạch trong cõi Ta Bà này, đến mười vạn tám ngàn thứ, nên biết hết các vị đắng, chua, mặn, lạt, ngọt, cay v.v... và sự biến đổi của các vật hòa hợp hay tự sanh, là tánh thuốc nóng hay mát, có độc hay chẳng độc, thảy đều biết cả.
- Từ khi phụng sự Như Lai, rõ biết tánh vị phi không phi hữu, phi tức thân tâm, phi lìa thân tâm, do phân biệt bản nhân của vị trần mà khai ngộ, được Phật ấn chứng cho anh em chúng con cái danh hiệu Dược Vương và Dược Thượng Bồ Tát; nay ở trong hội này, làm Pháp Vương Tử. Chúng con do vị trần mà giác ngộ, lên bậc Bồ Tát, Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của chúng con, thì VỊ TRẦN là hơn cả.
Bạt Đà Bà La cùng các bạn mười sáu Đại Sĩ liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- Chúng con trước kia ở nơi Phật Oai Âm Vương nghe pháp xuất gia, đến giờ tắm, chúng con theo lệ vào phòng tắm, bỗng ngộ tánh nước đã chẳng rửa bụi, cũng chẳng rửa thân, khoảng giữa an nhiên, vốn vô sở đắc. Cho đến hôm nay theo Phật xuất gia, vì sự huân tập từ xưa chẳng quên, khiến đắc quả vô học, Như Lai đặt tên con là Bạt Đà Bà La (hiền hộ) do phát minh diệu xúc, thành Pháp Vương Tử, Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con thì XÚC TRẦN là hơn cả.
Ma Ha Ca Diếp và Tử Kim Quang Tỳ Kheo Ni liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- Kiếp xưa, trong cõi này có Phật Nhật Nguyệt Đăng ra đời, con được thân cận nghe pháp tu học, sau khi Phật diệt độ, con thắp đèn liên tục cúng dường Xá Lợi, lại lấy vàng Tử Kim Quang tô thếp hình tượng Phật. Từ đó đến nay, đời đời kiếp kiếp, thân thể thường viên mãn sáng ngời như vàng Tử Kim Quang. Tử Kim Quang Tỳ Kheo Ni này, tức quyến thuộc cùng phát tâm khi xưa của con.
- Con quán thế gian, lục trần đều biến hoại, chỉ y theo Pháp Không Tịch, tu Diệt Tận Định, thì thân tâm mới có thể trải qua trăm ngàn kiếp như búng ngón tay. Con do quán Pháp Không, đắc quả A La Hán. Thế Tôn khen con tu hạnh đầu đà bậc nhất, diệu pháp sáng tỏ, tiêu diệt phiền não, Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì PHÁP TRẦN là hơn cả.
A Na Luật Đà liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- Lúc con mới xuất gia, thường ham nằm ngủ. Như Lai quở con là loài súc sinh, nghe lời Phật quở, con khóc lóc tự trách suốt bảy ngày không ngủ, hư cả hai con mắt. Thế Tôn dạy con tu pháp “Lạc Kiến Chiếu Minh Kim Cang Tam Muội” chẳng nhờ con mắt, xem thấy mười phương rỗng suốt như trái cây trong bàn tay; Như Lai ấn chứng cho con đắc quả A La Hán. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con thì XOAY CÁI THẤY TRỞ VỀ BẢN TÁNH là hơn cả.
Châu Lợi Bàn Đặc Ca liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- Con kém trí nhớ, chẳng thể tụng trì, khi mới gặp Phật, nghe Pháp rồi xuất gia, con cố nhớ một câu kệ của Như Lai, trong một trăm ngày mà chẳng thuộc lòng, hễ nhớ trước thì quên sau, nhớ sau thì quên trước, Phật thương xót con ngu muội, dạy con an cư, tu Sổ Tức Quán. Con quán hơi thở đến chỗ cùng tột, thấy các hành tướng vi tế dời đổi từng sát na nơi sanh, trụ, dị, diệt, tâm con bỗng ngộ, được đại vô ngại cho đến phiền não dứt sạch, đắc quả A La Hán, trước pháp tọa của Phật, được ấn chứng thành bậc vô học. Phật hỏi về viên thông như chỗ chứng của con thì XOAY HƠI THỞ TRỞ VỀ TÁNH KHÔNG là hơn cả.
Kiều Phạm Bạt Đề liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- Con có khẩu nghiệp khinh rẻ Sa Môn trong kiếp quá khứ, nên đời đời mắc bệnh nhai như trâu. Như Lai dạy con pháp môn: “Nhất Vị Thanh Tịnh Tâm Địa”. Con quán tánh biết vị chẳng phải thân thể, chẳng phải ngoại vật, ngay đó được siêu thoát những tập khí thế gian, bên trong giải thoát thân tâm, bên ngoài lìa bỏ thế giới, xa lìa tam giới như chim sổ lồng, lìa cấu tiêu trần, pháp nhãn thanh tịnh, đắc quả A La Hán. Như Lai ấn chứng cho con lên bậc vô học. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con thì XOAY CÁI BIẾT VỊ TRỞ VỀ TỰ TÁNH là hơn cả.