Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 08 - Phần 01 - MP3 và Ebook

  1. Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 08 - Phần 01

Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển Tám - Phần Một

A Nan! Như vậy chúng sanh trong mỗi loài, đều gồm đủ 12 thứ điên đảo, cũng như dụi mắt thấy hoa đốm lăng xăng; thảy đều từ Diệu Tâm sáng tỏ vọng sanh điên đảo, nên có đủ thứ tư tưởng hư vọng tán loạn như thế. Nay người tu chứng Tam Ma Địa, đối với Bản Nhân của tư tưởng tán loạn ấy, phải lập ba tiệm thứ mới có thể diệt trừ, cũng như muốn trừ mật độc trong bình để đựng cam lồ thì phải dùng nước sôi và tro rửa sạch cái bình, rồi mới đựng cam lồ.

- Thế nào gọi là ba tiệm thứ? Một là tu tập trừ các trợ nhân; hai là chơn tu, nạo sạch chánh tánh (tánh dâm dục); ba là tinh tấn, xoay ngược hiện nghiệp.

1. Sao gọi là trợ nhân?

- A Nan! 12 loại chúng sanh trong thế giới chẳng thể tự sống, phải nhờ bốn cách ăn để nuôi dưỡng, ấy là: ăn bằng cách nhai xé như con người; ăn bằng ngửi mùi hơi như quỷ thần; ăn bằng niệm tưởng như cõi Tứ thiền và ăn bằng ý thức như cõi Tứ Không, cho nên Phật nói tất cả chúng sanh đều nhờ sự ăn mà tồn tại.

- A Nan! Tất cả chúng sanh, ăn ngọt thì sống, ăn độc thì chết. Vậy chúng sanh cầu Tam Ma Địa, nên dứt bỏ ngũ tân của thế gian, ngũ tân này hễ ăn chín thì phát lòng dâm, ăn sống thì thêm sân hận. Những người ăn ngũ tân, dù biết giảng giải mười hai bộ kinh, nhưng mười phương thiên tiên đều chê mùi hôi thối ấy mà tránh xa; các loài ma quỷ, thừa lúc đang ăn ngũ tân, liếm môi của họ, người ấy thường ở chung với quỷ, phước đức ngày càng tiêu mòn, chẳng được lợi ích.

- Người ăn ngũ tân mà tu Tam Ma Địa thì Bồ Tát, Thiên Tiên, mười phương thiện thần chẳng đến hộ vệ. Đại lực ma vương có cơ hội hiện ra thân Phật, thuyết pháp cho họ, chê bai giới cấm, tán thán dâm dục và sân si. Người ấy chết thành quyến thuộc ma, khi hết phước báo của ma, liền đọa ngục A Tỳ.

- A Nan! Người tu đạo Bồ Đề phải dứt hẳn ngũ tân, ấy gọi là tiệm thứ tu hành tinh tấn thứ nhất.

2. Sao gọi là Chánh Tánh?

- A Nan! Chúng sanh muốn vào Tam Ma Địa, trước tiên phải giữ giới trong sạch, dứt hẳn lòng dâm, chẳng dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ nấu chín, chẳng ăn đồ sống.

- A Nan! Người tu hành nếu chẳng dứt dâm dục và sát sanh, mà muốn ra khỏi ba cõi thì chẳng có chỗ đúng. Nên phải xem sự dâm dục như rắn độc, như kẻ thù.

- Trước tiên phải giữ gìn Tứ khí, Bát khí của giới Thanh văn, trì thân chẳng động, sau hành theo luật nghi trong sạch của Bồ Tát, trì tâm chẳng khởi. Giới cấm đã thành tựu, đối với thế gian, trọn chẳng còn những nghiệp tương sanh tương sát; đã chẳng trộm cắp thì chẳng mắc nợ nhau và khỏi phải trả nợ của thế gian.

Người trong sạch ấy tu Tam Ma Địa, với cái thân của cha mẹ sanh, chẳng cần thiên nhãn, tự nhiên thấy được mười phương thế giới, gặp Phật nghe pháp, vâng lãnh thánh chỉ, được đại thần thông, dạo khắp cõi mười phương, túc mạng trong sạch, chẳng còn những điều khó khăn nguy hiểm, ấy gọi là tiệm thứ tu hành tinh tấn thứ hai.

3. Sao gọi là Hiện Nghiệp?

- A Nan! Người giữ giới trong sạch như thế, tâm chẳng tham dâm thì chẳng dong ruỗi, theo lục trần bên ngoài, do sự chẳng dong ruỗi tự xoay về bản tánh; đã chẳng duyên theo cảnh trần thì lục căn chẳng chỗ nương tựa, ngược dòng về Nhất, lục dục chẳng thành mười phương quốc độ sáng suốt trong sạch, ví như lưu ly, bên trong có trăng sáng (tự chiếu vô năng sở), thân tâm an lạc, diệu viên bình đẳng, được đại yên ổn, tất cả mật viên tịnh diệu của Như Lai đều hiện trong đó người ấy liền được vô sanh pháp nhẫn. Từ đó dần dần tùy theo cấp bậc tu chứng an lập thánh vị, ấy gọi là tiệm thứ tu hành tinh tấn thứ ba.

- A Nan! Thiện nam tử ấy, dục ái khô cạn căn và cảnh chẳng duyên nhau, cái báo thân hiện tiền này chẳng còn tiếp tục sanh nữa, giữ tâm rỗng sáng, thuần là trí huệ; tánh trí huệ sáng suốt, chiếu mười phương cõi. Chỉ có cái huệ khô cạn ấy gọi là Càn Huệ Địa.

THẬP TÍN

1. Tập khí tham dục mới cạn, chưa nối được dòng pháp của Như Lai, tức dùng tâm này chảy vào trung đạo, tánh viên diệu được mở mang, từ chỗ chơn diệu viên lại phát ra chơn diệu, diệu tin thường trú, tất cả vọng tưởng đều dứt sạch, trung đạo thuần chơn, gọi là TÍN TÂM TRỤ.

LƯỢC GIẢI

Khi tham dục mới cạn, chưa nối được dòng pháp của Như Lai, tức dùng tâm này chảy vào trung đạo, chẳng nghiêng bên không, chẳng nghiêng bên giả, cũng chẳng trụ nơi trung đạo, từ đây khởi quán, không, giả, trung, tam đế viên dung, gọi là VIÊN DIỆU; ở đây tâm thức có thể đến. Khi giác quán đã thành, từ chơn phát diệu, khế hợp lý viên, thì gọi là DIỆU VIÊN, chỗ này tâm thức chẳng thể đến. Nếu trung đạo nương theo chơn, thì sự diệu chưa phải chơn; từ chơn phát diệu, diệu ấy mới là CHÂN DIỆU.

Diệu chưa phải chơn, nên chẳng thể thường trụ, trung đạo thuần chơn, nên diệu được thường trụ. Diệu đã thường trụ thì tất cả vọng tưởng chẳng có chỗ dựa. Nói “DIỆU” là tự cảm thấy bất khả tư nghì, chẳng thể dùng ngôn ngữ tỏ bày, lòng tin tự tâm rất chơn thật, nên gọi TÍN TÂM TRỤ.

2. Chơn tính sáng tỏ, tất cả viên thông, ba thứ ấm, xứ, giới chẳng thể ngăn ngại, như thế cho đến trong vô số kiếp quá khứ, vị lai, tất cả tập khí xả thân, thọ thân thảy đều hiện ra trước mắt và ghi nhớ chẳng quên, gọi là NIỆM TÂM TRỤ.

3. Thuần chơn diệu viên, tinh vi phát dụng, những tập khí từ vô thỉ đều hóa thành một tâm chơn tịnh, gọi là TINH TẤN TÂM.

4. Tâm tinh tấn hiện tiền, thuần dùng trí huệ, gọi là HUỆ TÂM TRỤ.

5. Trí huệ sáng tỏ, tịch lặng cùng khắp, tịch diệu thường định, gọi là ĐỊNH TÂM TRỤ.

6. Từ định tâm phát ra ánh sáng, tánh sáng sâu vào, tiến tới chẳng lui, gọi là BẤT THỐI TÂM.

7. Tâm an nhiên tiến tới, duy trì chẳng mất giao tiếp với tinh thần của mười phương Như Lai, gọi là HỘ PHÁP TÂM.

8. Tánh sáng của Bổn giác được duy trì, hay dùng diệu lực xoay Từ Quang của Phật về tự tánh cũng như ánh sáng của hai gương đối nhau trong đó, các bóng nhiệm mầu trùng trùng vô tận, gọi là HỒI HƯỚNG TÂM.

9. Với Từ Quang của Bản Tâm miên mật, an trụ nơi vô vị, vô thượng trong sạch, thường trụ của Phật, chẳng thể lạc mất, gọi là GIỚI TÂM TRỤ.

10. Trụ giới tự tại, hay dạo khắp mười phương, ở đi tùy nguyện, gọi là NGUYỆN TÂM TRỤ.

THẬP TRỤ

1. A Nan! Thiện nam tử ấy, do chân phương tiện phát ra mười bật tín tâm kể trên, tâm tinh vi phát ra ánh sáng, mười thứ dụng xen lẫn nhau, viên dung thành một tâm, gọi là PHÁT TÂM TRỤ.

2. Trong tâm sáng suốt như lưu ly trong sạch, trong hiện vàng ròng tinh túy, dùng diệu tâm trước kia sửa sang thành đất địa để đi đứng (thực hành) gọi là TRỊ ĐỊA TRỤ.

3. Tâm địa biết khắp, tất cả rõ ràng, đi khắp mười phương, được chẳng ngăn ngại, gọi là TU HÀNH TRỤ.

4. Hạnh đồng với Phật, thọ tinh thần Phật, như cái thân trung ấm tự tìm cha mẹ, trung ấm dung thông với lòng tin, thầm nhập vào giống Như Lai, gọi là SANH QUÝ TRỤ.

5. Đã vào đạo thai, nối dòng của Phật, như thai đã thành hình, tướng người đầy đủ, gọi là PHƯƠNG TIỆN CỤ TÚC TRỤ.

6. Dung mạo và tâm tướng đều đồng như Phật, gọi là CHÁNH TÂM TRỤ.

7. Thân tâm dung hợp, ngày càng tăng trưởng gọi là BẤT THỐI TRỤ.

8. Linh tướng của thập thân nhất thời đầy đủ, gọi là ĐỒNG CHƠN TRỤ.

9. Hình đã thành, ra khỏi thai, làm con của Phật, gọi là PHÁP VƯƠNG TỬ TRỤ.

10. Khi Pháp Vương Tử đã trưởng thành, ví như Thái tử vua Sát Lợi đến tuổi trưởng thành, sẽ được phụ vương ủy nhiệm việc nước, nên làm lễ quán đảnh (lễ trưởng thành), gọi là QUÁN ĐẢNH TRỤ.

THẬP HẠNH

1. A Nan! Thiện nam tử ấy, đã thành con Phật, đầy đủ vô lượng diệu đức của Như Lai, tùy thuận mười phương chúng sanh, phương tiện tiếp dẫn, gọi là HOAN HỶ HẠNH.

2. Hay lợi ích cho tất cả chúng sanh, gọi là NHIÊU ÍCH HẠNH.

3. Tự giác giác tha, được chẳng chống trái, gọi là VÔ SÂN HẬN HẠNH.

4. Tam thế bình đẳng, mười phương thông đạt, vì được “ý sanh thân”, nên tùy mỗi loài chúng sanh mà hiện thân hóa độ cho đến cùng tột vị lai, gọi là VÔ TẬN HẠNH.

5. Nơi mỗi mỗi pháp môn, tất cả hòa đồng, được chẳng sai lầm, gọi là LY SI LOẠN HẠNH.

6. Nơi tướng đồng hiện ra nhiều tướng dị; nơi những tướng dị, mỗi mỗi thấy đồng, gọi là THIỆN HIỆN HẠNH.

7. Như thế cho đến vi trần đầy khắp mười phương hư không, trong mỗi mỗi trần hiện mười phương cõi; hiện trần hiện cõi, chẳng ngăn ngại nhau, gọi là VÔ TRƯỚC HẠNH.

8. Các thứ hiện tiền đều là Đệ Nhất Ba La Mật Đa, gọi là TÔN TRỌNG HẠNH.

9. Viên dung như thế, hay thành tựu quy tắc lợi sanh của mười phương chư Phật, gọi là THIỆN PHÁP HẠNH.

10. Mỗi mỗi đều trong sạch vô lậu, nhất chơn vô vị, Bản Tánh vốn như thế, gọi là CHƠN THẬT HẠNH.

THẬP HỒI HƯỚNG

l. A Nan! thiện nam tử ấy, thần thông đầy đủ, phật sự đã thành; tự tánh tinh túy thuần chơn, xa lìa các lỗi lầm, ngay khi hóa độ chúng sanh mà diệt tướng năng độ, sở độ, hồi tâm vô vi hướng đạo Niết Bàn, gọi là CỨU HỘ NHẤT THIẾT CHÚNG SANH, LY CHÚNG SANH TƯỚNG HỒI HƯỚNG.

2. Hoại cái có thể hoại, tức xa lìa chúng sanh tướng, tướng xa lìa cũng phải lìa, vậy tướng hoại thì sở không, lìa cái lìa thì năng không; năng sở đều không, bản giác bất hoại, gọi là BẤT HOẠI HỒI HƯỚNG.

3. Bản giác trạm nhiên, tâm giác đồng như Phật giác, gọi là ĐẲNG NHẤT THIẾT PHẬT HỒI HƯỚNG.

4. Tinh túy sáng tỏ, tâm địa đồng như Phật địa, gọi là CHÍ NHẤT THIẾT XỨ HỒI HƯỚNG.

5. Thế giới và Như Lai xen lộn lẫn nhau, được chẳng ngăn ngại, gọi là VÔ TẬN CÔNG ĐỨC TẠNG HỒI HƯỚNG.

6. Nơi đồng phật địa, mỗi mỗi sanh ra cái nhân trong sạch, nương nhân ấy mà phát huy, vào đạo Niết Bàn, gọi là TÙY THUẬN BÌNH ĐẲNG THIỆN CĂN HỒI HƯỚNG.

7. Chơn thiện căn đã thành, thì mười phương chúng sanh đều là Bản Tánh của ta, thành tựu tánh tròn đầy, chẳng bỏ chúng sanh, gọi là TÙY THUẬN ĐẲNG QUÁN NHẤT THIẾT CHÚNG SANH HỒI HƯỚNG.

8. Tức nơi nhất thiết pháp, mà lìa nhất thiết tướng cái “tức” cái “lìa”, cả hai đều chẳng dính mắc, gọi là CHƠN NHƯ TƯỚNG HỒI HƯỚNG.

9. Thật đắc Chơn Như, mười phương vô ngại, gọi là VÔ PHƯỢC GIẢI THOÁT HỒI HƯỚNG (phược là trói).

l0. Đức tánh viên mãn thành tựu, số lượng của pháp giới tiêu diệt, gọi là PHÁP GIỚI VÔ LƯỢNG HỒI HƯỚNG.

TỨ GIA HẠNH

- A Nan! thiện nam tử ấy, đã tu xong 41 bậc tâm trong sạch, kế đó thành tựu bốn thứ gia hạnh diệu viên:

l. Tức đem Phật giác, dụng làm tự tâm, cũng như dùi cây lấy lửa, cây chưa đốt cháy, lửa sắp ra mà chưa ra, gọi là NOÃN ĐỊA.

2. Lại dùng tâm mình thành chỗ hành của Phật cũng như người đứng trên chót núi, toàn thân đã vào hư không, nhưng dưới chân đôi khi còn hơi dính đất, như có chỗ nương mà chẳng phải nương, gọi là ĐẢNH ĐỊA.

3. Tâm với Phật đồng, khéo đắc trung đạo, như người hay nhẫn nại, niệm chẳng phân biệt, phi hoài (chẳng nhớ), phi xuất (chẳng quên), chẳng thể nói ra, gọi là NHẪN ĐỊA.

4. Số lượng tiêu diệt, mê, giác và trung đạo đều chẳng thể gán tên, gọi là THẾ ĐỆ NHẤT ĐỊA.

THẬP ĐỊA

l. A Nan! thiện nam tử ấy, khéo được thông đạt nơi Đại Bồ Đề, chỗ giác ngộ thông với Như Lai, cùng tột cảnh giới của Phật, gọi là HOAN HỶ ĐỊA.

2. Tánh dị nhập đồng, tánh đồng cũng diệt, gọi là LY CẤU ĐỊA.

3. Trong sạch thì phát ra ánh sáng, gọi là PHÁT QUANG ĐỊA.

4. Sáng tỏ thì giác tánh sung mãn, gọi là DIỆM HUỆ ĐỊA.

5. Tất cả đồng dị đều chẳng thể đến, gọi là NAN THẮNG ĐỊA.

6. Tánh trong sạch hiển lộ. Chơn Như vô vi gọi là HIỆN TIỀN ĐỊA.

7. Cùng tột bờ bến của Chơn Như, gọi là VIỄN HÀNH ĐỊA.

8. Nhất tâm chơn như, gọi là BẤT ĐỘNG ĐỊA.

9. Chơn như phát dụng, gọi là THIỆN HUỆ ĐỊA.

10. A Nan, công hạnh tu tập của Bồ Tát từ trước đến đây, công đức viên mãn, cũng gọi địa này là Tu Tập Vị, tức dùng đám mây nhiệm mầu, đầy đủ từ bi trí huệ, che chở chúng sanh, khắp biển Niết Bàn, gọi là PHÁP VÂN ĐỊA.

ĐẲNG GIÁC

Như Lai ngược dòng từ quả vị trở lại nhân địa, cứu độ chúng sanh; Bồ Tát thuận hành từ chúng sanh tu đến quả Phật, thuận ngược đều giao tiếp nơi Bổn Giác, gọi là ĐẲNG GIÁC.

DIỆU GIÁC

- A Nan! Từ Càn Huệ Tâm đến bậc Đẳng Giác rồi, giác ấy mới được viên mãn nơi Tâm Kim Cang. Bắt đầu từ Càn Huệ Địa từng lớp tiến lên, trải qua 12 ngôi vị đơn và phức ([1]) mới đến DIỆU GIÁC, thành Vô Thượng Đạo.

- Mỗi mỗi địa ấy, đều lấy trí Kim Cang quan sát mười thứ ví dụ như huyễn, dùng Xa Ma Tha (chỉ) và Tỳ Bà Xá Na (quán) của chư Như Lai tu chứng trong sạch lần lượt sâu vào.

- A Nan! Như thế đều dùng ba tiệm thứ tiến tu, nên khéo thành tựu 55 quả vị trong đạo Bồ Đề chơn thật. Quán như thế gọi là chánh quán, chẳng quán như thế gọi là tà quán.

Bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử ở trong chúng, liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:

- Thế Tôn! Nên gọi Kinh này là Kinh gì, con và chúng sanh phải phụng trì như thế nào?

Phật bảo Văn Thù Sư Lợi:

- Kinh này gọi là “Đại Phật Đảnh Thuần Trắng Chẳng Ô Nhiễm, Vô Thượng Bảo Ấn, Mười Phương Như Lai Thanh Tịnh Hải Nhãn”, cũng gọi là “Cứu Hộ Thân Nhân, Độ Thoát A Nan và Tánh Tỳ Kheo Ni trong hội này. Đắc Tâm Bồ Đề, Vào Biển Biến Tri”, cũng gọi là “Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa”, cũng gọi là “Đại Phương Quảng Diệu Liên Hoa Vương, Mười Phương Phật Mẫu Đà La Ni Chú”, cũng gọi là “Quán Đảnh Chương Cú, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm”, các ngươi nên phụng trì.